Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2009

tìm hiểu về nguyễn cao kỳ .

Nguyễn Cao Kỳ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm
Nguyễn Cao Kỳ

Nguyễn Cao Kỳ (sinh năm 1930) là một sĩ quan quân đội cao cấp và cựu chính khách Việt Nam. Ông từng là Thủ tướng (1965-1967) và Phó Tổng thống (1967-1971) của Việt Nam Cộng hòa; từng là đồng minh rồi đối thủ của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; từng được coi là người có tư tưởng chống Cộng cực đoan trong thời kỳ trước 1975 rồi sau đó, kể từ năm 2004, được Nhà nước Việt Nam coi là biểu tượng của sự hòa hợp hòa giải dân tộc. Nguyễn Cao Kỳ là người nhận được nhiều mô tả và bình luận rất trái chiều từ nhiều phía.

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Tiểu sử

[sửa] Thời trẻ

Nguyễn Cao Kỳ, sinh năm 1930 tại thị xã Sơn Tây, (quê làng Đường Lâm - thị xã Sơn Tây), là con thứ ba và là con trai độc nhất của ông giáo Nguyễn Cao Hiếu. Ông lúc trẻ học giỏi, nhưng rất ngỗ nghịch. Ông học ở Sơn Tây hết lớp 4 thì được cho về Hà Nội vào học ở trường Bưởi (hay trường trung học Bảo hộ - Lycée du protectorat - nay được gọi là trường trung học phổ thông Chu Văn An).

[sửa] Binh nghiệp và hoạt động chính trị

[sửa] Giai đoạn trước 1967

Tướng Kỳ và tướng Ngô Quang Trưởng(người đội mũ sắt không che mặt) trên tàu sân bay Midway năm 1975

Nguyễn Cao Kỳ đi lính Pháp năm 1952 và được đưa vào huấn luyện tại Trường sỹ quan trừ bị khoá I ở Nam Định. Sau đó Nguyễn Cao Kỳ được chọn đi đào tạo tại trường không quân Marrakech tại Maroc.

Sau Hiệp định Genève, ông ở lại tham gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trở thành một trong những phi công và sĩ quan chỉ huy đầu tiên của Không lực Việt Nam Cộng hoà.

Khi đảo chính 1963 nổ ra, ông đứng về lực lượng đảo chính, nắm quyền chỉ huy không quân, tạo áp lực buộc lực lượng trung thành với tổng thống Ngô Đình Diệm phải đầu hàng.

Sau đảo chính, giống đa phần tướng lĩnh tham gia đảo chính và một số tướng "trung dung" và không tuyên bố ủng hộ hay có hành động giúp đỡ phe lật đổ (như Cao Văn Viên), đường hoạn lộ của ông hanh thông hơn trước nhiều. Ông trở thành Tư lệnh không quân, mang hàm Thiếu tướng và là Ủy viên của Hội đồng Quân nhân Cách mạng (được biết tới phổ biến hơn với tên gọi Hội đồng tướng lãnh). Tư cách Ủy viên Hội đồng tiếp tục là cơ hội để ông có bước tiến mới về chính trị, đặc biệt là sau khi Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ bị buộc phải từ chức và tuyên bố trao quyền cho Hội đồng tướng lãnh. Ông được coi là thủ lĩnh của một phe quy tụ các tướng trẻ. Với việc Hội đồng tướng lãnh chính thức là người điều hành quốc gia, vị trí của ông càng được củng cố sau khi vị Thủ tướng kế nhiệm là Nguyễn Khánh gặp quá nhiều chống đối. Nguyễn Khánh,người là Đại tướng và thâu tóm tất cả các chức danh như Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Quốc trưởng... trong khi vẫn giữ ghế Chủ tịch Hội đồng Quân nhân cách mạng và Thủ tướng chính phủ, ngay lập tức gặp phải hàng loạt cuộc biểu tình phản đối của nhân dân cũng như cuộc đảo chính quân sự của Đại tá Phạm Ngọc Thảo và tướng Lâm Văn Phát vào tháng 2 năm 1965; và trước đó 3 tháng là một cuộc đảo chính quân sự khác - lần này cả 2 người cầm đầu là tướng-Dương Văn ĐứcLâm Văn Phát. Nguyễn Khánh phải từ chức Thủ tướng sau khi giữ ghế này chưa đầy năm. Sau sự thất thế nhanh chóng của Dương Văn MinhTrần Thiện Khiêm (hai đại tướng trong bộ ba Khánh-Minh-Khiêm) và của chính phủ 3 tháng của Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ chính thức trở thành Thủ tướng, chức danh được gọi một cách chính thức là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương.

Chính ông là người ra quyết định cứng rắn, đàn áp cuộc đấu tranh của Phật giáo và mưu toan ly khai của tướng Nguyễn Chánh Thimiền Trung năm 1965. Một thời gian ngắn sau đó, vào năm 1966, Nguyễn Chánh Thi phải rời Việt Nam trong tình trạng bắt buộc và sống lưu vong tại Hoa Kỳ.

[sửa] Giai đoạn 1967-1975

Năm 1967, ông cùng với tướng Nguyễn Văn Thiệu ứng cử và đắc cử Phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1971. Trong hồi kí cũng như phỏng vấn của một số cựu sĩ quan cao cấp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ban đầu ông giành được nhiều tín nhiệm trong giới quân nhân hơn Nguyễn Văn Thiệu và là người nhiều khả năng nhất có được sự đề cử duy nhất, trở thành đại diện duy nhất của quân đội tham gia bầu cử với vai trò ứng viên Tổng thống. Sự ủng hộ từ hàng ngũ các tỉnh trưởng dành cho ông cũng vượt trội so với sự hậu thuẫn mà Nguyễn Văn Thiệu có được. Tuy nhiên, sự bứt phá của Nguyễn Văn Thiệu sau khi ông này có được hậu thuẫn của những thế lực chính trị khác như từ phía lãnh đạo Công giáo miền Nam (Nguyễn Văn Thiệu là tín hữu Công giáo) và, quan trọng nhất, sự ủng hộ của chính quyền Hoa Kỳ đã làm Nguyễn Cao Kỳ được nhìn nhận là không phải người tốt nhất cho vị trí đại diện quân đội tham gia vòng bầu cử Tổng thống nữa. Nguyễn Cao Kỳ chấp nhận tham gia liên danh tranh cử Thiệu-Kỳ với vai ứng viên Phó Tổng thống. Lời tuyên bố của ông khi việc chọn ứng viên quân đội chưa ngã ngũ "...tôi sẽ trở về làm sếp không quân như cũ!" thường được trích dẫn với ám chỉ rằng đó là sự đe dọa sẽ gây khó dễ bằng các biện pháp quân sự nếu ông không thắng trong cuộc bầu chọn ứng viên. Lần bầu cử năm 1967, liên danh Thiệu-Kỳ thắng cử với chỉ trên 30% số phiếu và khoảng cách không vượt trội so với cặp đôi đứng sát sau[cần dẫn nguồn].

Từ năm 1968 trở đi là giai đoạn ông bị gạt ảnh hưởng ra khỏi các vị trí quan trọng trong chính quyền, dần chuyển sang vị thế đối lập với ê-kíp Nguyễn Văn Thiệu. Rút lui khỏi vòng bầu cử Tổng thống năm 1971 với những tố cáo công khai rằng đó là một trò hề chính trị, ông càng ngày càng xây dựng hình ảnh bản thân như là một trong những nhân vật bất đồng chính kiến gay gắt nhất đối với phe cầm quyền[cần dẫn nguồn]. Ở kì bầu cử Tổng thống này, Nguyễn Văn Thiệu-Trần Văn Hương là liên danh tranh cử duy nhất với kết quả chung cuộc là họ giành hơn 90% số phiếu bầu. Trước khi cuộc bỏ phiếu được tiến hành, Dương Văn Minh, người mới trở lại Việt Nam sau vài năm lưu vong, cũng tuyên bố rút lui. Mặc dù trước đó cũng tham dự cuộc chạy đua, rốt cuộc Dương Văn Minh cũng quyết định từ bỏ cuộc đua nữa sau khi tham khảo ý kiến của một số người, trong đó có Phạm Xuân Ẩn.

Năm 1975, trước thắng lợi và lo sợ sự trừng phạt của quân Cộng sản, ông đã thu xếp cho gia đình di tản và định cư tại Mỹ. Còn ông đã đào thoát bằng máy bay trực thăng do chính ông lái ra hàng không mẫu hạm Midway ngày 29 tháng 4 năm 1975 (trong chuyến bay này có cả tướng Ngô Quang Trưởng.

[sửa] Cuộc sống hiện tại

Ông Nguyễn Cao Kỳ tại nơi làm việc cũ trong dinh Độc Lập (2005). Người đứng bên phải là ông Vũ Mão, ở thời điểm đó còn là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Việt Nam.

Ông Nguyễn Cao Kỳ hiện nay (2008), sau khi sống tại Hoa Kỳ, đã về Việt Nam bốn lần. Con gái ông, Nguyễn Cao Kỳ Duyên, là một ca sĩ, luật sư và là người dẫn chương trình nổi tiếng của cộng đồng người Việt hải ngoại. Khi trở về Việt Nam, ông được nhiều cấp cao của Việt Nam đón tiếp, đó là những người có trọng trách bên Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và cả Mặt trận Tổ quốc (Chủ tịch Phạm Thế Duyệt).

Những ngày ở Việt Nam, ông là người đóng vai trò trung gian cho Đào Hồng Tuyển - người được coi là giàu nhất Việt Nam[cần dẫn nguồn] - thành công trong một thương vụ xây dựng resort và sân golf, được báo chí tường thuật là tới 1,5 tỉ USD với một doanh nhân Mỹ.

[sửa] Hình ảnh công cộng

[sửa] Giai đoạn trước 1975

Ông Nguyễn Cao Kỳ, khi còn làm việc trong quân đội và trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, đã có nhiều tai tiếng về ứng xử có tính tự đề cao cá nhân, những tuyên bố không hợp với tình hình lịch sử cũng như một số lem nhem về việc buôn lậu ma tuý... tất cả đã có ảnh hưởng đến uy tín của chính ông và của chính phủ Việt Nam Cộng hoà[cần dẫn nguồn].

Khi còn nắm quyền bính, với tác phong và cung cách ứng xử được mô tả là "phong trần, ngang tàng nhưng nghệ sĩ và phóng khoáng", dường như ông nhận được sự hâm mộ của nhiều người, đặc biệt là những sĩ quan trẻ tuổi cấp dưới. Tuy nhiên, theo nhận xét của nhiều người khác, ông bị coi là vô nguyên tắc và phải chịu trách nhiệm về những lời nói và hành xử "cẩu thả và vô trách nhiệm"[cần dẫn nguồn].

Thêm vào đó, hành vi của những người được coi là cùng cánh với ông cũng là nguyên cớ khiến ông trở nên mất uy tín. Một trong những vụ tai hại nhất là vụ của Nguyễn Ngọc Loan với bức ảnh chụp lại cảnh ông Loan nã súng bắn thẳng vào đầu một người Việt Cộng trong Tết Mậu Thân 1968. Nguyễn Ngọc Loan, người giữ chức vụ cao nhất tại Đặc ủy Trung ương Tình báo, là cấp dưới trực tiếp của Nguyễn Cao Kỳ khi ông là Tư lệnh Không quân (Nguyễn Ngọc Loan là Tư lệnh phó).

Một trong những lời tuyên bố được xem là tai tiếng của ông là trong một cuộc tụ họp quần chúng có quy mô lớn vào ngày 21-4-1975, ông công khai tuyên bố "tử thủ Sài Gòn cho đến giọt máu cuối cùng", quyết tâm biến Sài Gòn thành giống "Stalingrad đệ nhị"[1]; nhưng ngay sau đó vài hôm, vào ngày 29-4-1975, ông quyết định đi di tản.

[sửa] Giai đoạn định cư tại Hoa Kỳ

Theo lời tự thuật của ông với báo chí trong những lần trở về Việt Nam, khi rời khỏi Việt Nam ngay trước biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông chỉ kịp mang theo vài va-li nhỏ đựng vật dụng cá nhân và phải bỏ lại toàn bộ gia sản của ông, bao gồm một số lớn bất động sản, trang trại, máy móc, xe ủi tại Đà Lạt. Ông kiếm sống bằng cách đi làm thuê trong hơn 10 năm đầu sống trên đất Mỹ. Cũng theo tự thuật của Nguyễn Cao Kỳ, ông phải chịu nhiều châm biếm và dè bỉu từ người khác khi họ cho rằng ông chỉ làm bộ như vậy để che giấu món tài sản lớn mà ông đã mang theo trên thực tế[cần dẫn nguồn]. Những người cho rằng khi này ông thật sự nghèo khó thì so sánh ông với Nguyễn Văn Thiệu - người được đồn đại rộng rãi là đã kịp mang theo 16 tấn vàng khi rời khỏi Việt Nam. Ông tự nhận xét là trong một giai đoạn dài ông không nhận được thiện cảm của bất cứ ai cả[cần dẫn nguồn].

[sửa] Giai đoạn sau khi trở về Việt Nam

Sự trở về của ông cũng gây ra nhiều mâu thuẫn gay gắt. Đối với một số người, ông là sự phản bội và bị phản đối ở nhiều nơi. Nhưng với một số người khác, ông được xem như một biểu hiện của hòa giải, gác bỏ hận thù quá khứ[cần dẫn nguồn]. Ông đã tuyên bố ủng hộ Nhà nước Việt Nam và lên tiếng chỉ trích những người tự xưng là đang tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam, và theo ông thì chuyện một số người Việt ở hải ngoại đòi Việt Nam có một thể chế dân chủ như ở Hoa Kỳ là điều rất sai lầm, vì dân chủ kiểu đó không phù hợp với thực trạng Việt Nam lúc này. [2]. Ông đã về Việt Nam nhiều lần và chuẩn bị cho ấn hành tập hồi ký Con cầu tự tại Việt Nam. Cuốn sách này được thông báo là sẽ được phát hành với số lượng vào cỡ 4000 bản.

Trước đó, ông cũng công bố một số bài viết (phần nhiều trước năm 2000) về Chiến tranh Việt Nam, chẳng hạn như những bài phân tích và mô tả binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa không thể hoàn toàn thích nghi với lối huấn luyện, lối trang bị vũ khí tốn kém và đắt tiền kiểu Mỹ cũng như cách thức tiến hành chiến tranh theo kiểu nhà giàu. Ông cũng phê phán sự phụ thuộc thái quá của miền Nam, trên hầu như tất cả mọi phương diện, vào người "đỡ đầu" của họ là chính quyền Hoa Kỳ.

Tuy vậy, cho tới rất gần đây, vẫn xuất hiện những chỉ trích nhắm vào Nguyễn Cao Kỳ, kể cả từ những cựu quân nhân được coi là kín tiếng nhất và được tôn trọng về đạo đức như Cao Văn Viên. Tướng Cao Văn Viên, cựu Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng hòa, trong môt bài phỏng vấn lúc cuối đời, phê phán Nguyễn Cao Kỳ là khoác lác và nhận về mình công trạng của người khác, cụ thể là trong trường hợp chính quyền Việt Nam Cộng hòa sử dụng biện pháp cứng rắn và đàn áp thành công những cuộc phản kháng của Phật tử Huế vào năm 1968. [3]

[sửa] Câu nói nổi tiếng

  • "Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê."
(trả lời trong cuộc phỏng vấn Báo Thanh Niên Xuân Ất Dậu, ngày 25 tháng 1, 2005)

[sửa] Tham khảo

  1. ^ Stalingrad, trong Thế chiến thứ hai đã đứng vững trước sự tiến công của quân Đức Quốc xã trong ngót 100 ngày, sau đó quân đội Đức bị bao vây và tiêu diệt trong thành phố
  2. ^ Cựu phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố ủng hộ chế độ cộng sản
  3. ^ Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên - Lâm Lễ Trinh, đăng tại lenduong.net.

[sửa] Xem thêm