Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2009

bài lưu trữ bên blog giỡn mặt " chính quyền f 17

DẤU TÍCH 30 / 4 / 1975 ( TÀI LIỆU LƯU TRỬ )





Tổ Quốc Ghi Ơn












* Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 (19??-1975
Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc Bình long. Tướng Hưng đã tự sát vào tối ngày ngày 30.04.75 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.

* Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1933-1975)



Sau khi nhận được lệnh phải đầu hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành dinh ở Lai Khê.

* Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam,
Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975)


Vào lúc 11 Giờ 30, ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các binh sỉ đã tự kết liễu đời mình.

* Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh (1925-1975)
Vào đêm ngày ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Hai đã tự sát tại trung tâm Ðồng Tâm.

* Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975)
Thiếu Tướng Phú là người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên, đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân sử cận đại.
Tướng Phú tự tử tại nhà vào ngày 30.04.75.

* Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)*


Ðại Tá Hồ ngọc Cẩn đã anh dũng chiến đấu tới cùng và không chịu đầu hàng. Ðại Tá Cẩn đã bị quân Cọng Sản đem ra xử trước công cọng và sau đó bị xử bắn tại chỗ.

* Ðại Tá Ðặng Sĩ Vinh
Vào lúc 2 giờ ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình gồm vợ và bãy người con đã tự tử bằng súng lục.

Tags: dấutích30/4/1975(tàiliệulưutrử )
Sunday March 29, 2009 - 01:04pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
LỊCH SỮ VIỆT - NAM ( BÀ TRIỆU )

Cuộc Khởi Nghĩa Của Bà Triệu
Nhụy Kiều Tướng Quân (248)

1. Nguyên nhân

Khi nhà Ðông Hán bên Tàu mất ngôi thì đất Giao Châu thuộc về nhà Ðông Ngô cai trị. Nhà Ðông Ngô sai Lục Dận sang làm Thứ Sử Giao Châu. Lục Dận là một kẻ tàn bạo, các quan Tàu dưới quyền lại tham nhũng. Nhân dân đau khổ, căm hờn, những mong có người phất cờ khởi nghĩa để nổi lên hưởng ứng. Người ấy là Bà Triệu.

2. Thân thế Bà Triệu

Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh, quê ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa bây giờ. Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, Bà ở với anh là Triệu Quốc Ðạt. Dầu là phận nữ nhi, Bà có sức mạnh lại thêm có chí khí và mưu lược. Lúc 20 tuổi, gặp người chị dâu ác độc. Bà bỏ nhà vào núi ở.

Trước cảnh đồng bào bị người Tàu hà hiếp, Bà bèn chiêu mộ binh mã mưu việc cứu nước. Anh Bà khuyên can, Bà đáp rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Tràng Kình ở biển Ðông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi cơn đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời, cúi đầu cong lưng làm tì thiếp cho người ta". Người anh nghe được cũng vào rừng tụ tập nghĩa binh để chờ ngày khởi sự.

3. Cuộc khởi nghĩa

Năm 248, thừa lúc lòng dân phẫn uất đến cực độ, Bà cùng anh dấy binh ở quận Cửu Chân. Khi ra trận, Bà cỡi voi, mặc áo giáp vàng, xông pha giữa chốn ba quân như vào chỗ không người. Quân sĩ rất kính phục, gọi bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Bà còn được tôn làm Lệ Hải Bà Vương. Bà đánh với quân Tàu nhiều trận dữ dội. Thanh thế Bà lừng lẫy, vang dội đến Trung Hoa.

4. Bại trận tử tiết

Nhà Ðông Ngô vội sai Lục Dận đem một đạo binh rất lớn đi đánh Bà. Bà chống cự hăng hái được sáu tháng. Sau, vì quân ít thế cô, Bà bại trận. Bà chạy đến làng Bồ Ðiền, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa, rồi tự tử. Lúc ấy, Bà mới có 23 tuổi. Hiện nay, nơi Bà tự tử vẫn còn đền thờ.

5. Treo gương ái quốc

Sau hai Bà Trưng, Bà Triệu, dầu sự nghiệp chưa thành, là vị anh thư thứ ba treo gương ái quốc cho dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa giải phóng đất nước sau này.
Tags: lịchsữ việt-nam(bàtriệu)
Sunday March 29, 2009 - 12:59pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
LỊCH SỮ VIỆT - NAM ( HAI BÀ TRƯNG )



Hai Bà Trưng

Trần Gia Phụng

Hiện nay, các sử gia Việt-Nam chưa đồng ý với nhau về giai đoạn khai sinh của nước cổ Việt. Có người cho rằng lịch sử nước ta bắt đầu từ thời đại Hồng Bàng (2879-258 tr. Công nguyên). Nhưng cũng có người không đồng ý điều nầy vì nghĩ rằng mười tám đời Hùng Vương không thể kéo dài trong hơn hai ngàn năm trăm năm, tính trung bình mỗi vua Hùng cai trị hơn một trăm ba chục năm. Đây là điều khó có thể xảy ra trong thực tế. Một trong những người đầu tiên lên tiếng nghi ngờ điều nầy là vua Tư. Đức (trị vì 1847-1883).(1)

Chịu ảnh hưởng của các bộ sử cũ của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên (Đại Việt sử ký toàn thư, gọi tắt là Toàn thư), và của Quốc sử quán triều Nguyễn (Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục), sử gia Trần Trọng Kim, trong bô. Việt Nam sử lược, khi viết về đời Hồng Bàng, bắt đầu bằng câu: "...Cứ theo tục truyền ..." Tục truyền có nghĩa là không phải là thực. Sau đời Hồng Bàng, Trần Trọng Kim trình bày tiếp về nhà Thục rồi nhà Triệu\. Nhưng chuyện nhà Thục chỉ là tiếp nối chuyện Hùng Vương; kết thúc cũng giống như chuyện Hùng Vương nên không được xác tín cho lắm. Về nhà Triệu, ai cũng biết rằng Triệu Đà là tùy tướng của Nhâm Ngao, và Nhâm Ngao là phiên tướng của nhà Tần.(2) Trước khi từ trần, Ngao khuyên Triệu Đà nhân cơ hội Hán Sở tranh hùng nên dựa vào địa thế xa xôi hiểm trở của quận Nam Hải, thành lập một nước độc lập với trung ương.(3) Triệu Đà liền tự xưng vương tức Triệu Vũ Vương, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ơ? Phiên Ngung năm 207 tr. CN. (giáp ngọ). (4) Nước Nam Việt không tồn tại được lâu vì sau khi Hán Cao Tổ (trị vì 202-195) lật đổ nhà Tần lên cầm quyền, tuy lúc đầu bang giao giữa Nam Việt với Trung-Hoa hòa hoản, nhưng về sau, nhà Hán (202 tr. CN - 220) sai Lô. Bác Đức (tước là Phục Ba tướng quân) đem quân đánh nhà Triệu năm 111 tr. CN, giết Triệu Dương Vương và thái phó Lữ Gia, chiếm Nam Việt, rồi đổi Nam Việt thành Giao Chỉ bộ. Đáng chú ý là bô. Giao Chỉ là một tên chung đê? chỉ một vùng rộng lớn gồm chín quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đạm Nhĩ mà trong đó, theo Ngô Thời Sĩ, chỉ có ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân,và Nhật Nam mới riêng hẳn là cô? Việt. (5) Phải chăng vì sự lầm lẫn giữa bô. Giao Chỉ và quận Giao Chỉ mà nhiều sử thuyết đã đưa Triệu Đà thành một triều đại của cô? Việt và cho rằng lãnh thô? cô? Việt là khu vực cai trị của Triệu Đà bao gồm cả vùng Quảng Châu (Trung-Hoa) ngày nay?(6)

Sự kiện báo hiệu việc mở đầu công cuộc tranh đấu giành độc lập của nước cô? Việt thuộc địa bàn khu vực nước ta ngày nay là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 (Canh Tý). Trưng Trắc, người huyện Mê Linh (Phúc Yên ngày nay), cùng em là Trưng Nhị đánh đuổi thái thú Trung Hoa là Tô Định về nước, lấy được một số thành trì và tự xưng vương, đóng đô ở quê nhà là Mê Linh. Hai Bà Trưng đã được sử sách ghi lại là người địa phương Giao Châu đầu tiên lập chiến công chống lại chính quyền Trung Hoa, nói lên ý chí độc lập của người cô? Việt nhắm tạo dựng một quốc gia riêng biệt, thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa.

Năm 41 (tân sửu), Trung Hoa gởi Mã Viện sang Giao Châu\. Mã Viện, cũng được phong tước Phục Ba tướng quân, tiến đánh và dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 43 (quý mão). Nước cô? Việt tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của người Tàu.

Về lịch sử cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có những vấn đề cần được xác định lại:

1. Tên chồng bà Trưng Trắc : Theo Toàn thư (phần Ngoại kỷ, quyển 3 tờ 2a) và Cương mục (phần Tiền biên, quyển 2 tờ 10), chồng bà Trưng tên là Thi Sách nhưng theo sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên, một tác gia? Trung-Hoa đã qua vùng Mê Linh (Cô? Việt), viết vào thế kỷ thứ 6, chồng của bà Trắc tên là Thi\. Sau đây là nguyên văn lời Lịch Đạo Nguyên: "...Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê\..."(nghĩa là: ...Con của lạc tướng Châu Diên tên Thi hỏi cưới (sách) con gái của lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ...) (Thủy kinh chú, quyển 37, tờ 62a)(7)

Cần chú ý hai điều: thứ nhất ngành viết sử của nước ta chỉ bắt đầu vào thế kỷ 13, nên những đoạn sư? trước đó, người xưa đều sử dụng tài liệu Trung Hoa\. Thứ nhì sách chữ Nho ngày xưa viết không chấm câu nên đọc rất dễ bị lầm. Trong câu văn của Thủy kinh chú, nếu Thi Sách là họ và tên thì câu nầy thiếu động từ, trơ? nên tối nghĩa\. Đọc tiếp Thủy kinh chú, sự cân đối trong cách dùng từ sẽ cho thấy rõ tên của chồng bà Trưng. "...Trắc hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện hưng binh phạt, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê\..."(...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy; Mã Viện đem quân đánh, [ông bà] Trắc Thi trốn vào Cẩm Khê\...) Tác gia? Lịch Đạo Nguyên dùng tên Trắc, vậy thì chữ Thi theo sau đó cũng phải là tên chứ không thể là họ.

2. Lý do cuộc khởi nghĩa : Theo Toàn thư và Cương mục, Thi Sách bị thái thú Tô Định giết, đồng thời Tô Định cai trị tàn bạo, dùng pháp luật trói buộc nên Bà Trưng khởi nghĩa.

Về lý do thù chồng, như trên đã trích dẫn, theo Lịch Đạo Nguyên trong Thủy Kinh Chú thì: "...Trắc hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã viện hưng binh phạt, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê..." (...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng ông Thi nổi dậy, Mã Viện đem quân đánh, [ông bà] Trắc Thi trốn vào Cẩm Khê...), như vậy có nghĩa là ông Thi còn sống khi Bà Trưng nổi lên. Vậy lý do nầy không đứng vững.

Một tài liệu khác đã giải thích vì sao chồng Bà Trưng bi. khai tử trong khi ông vẫn còn sống và cùng vợ khởi nghĩa. Đó là quyển The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh] của tác gia? Keith Weller Taylor do University of California Press ấn hành năm 1983. Trong sách nầy, tác gia? Taylor cho rằng do thành kiến phụ quyền, các nhà viết sử người Việt của những thế kỷ sau không thể chấp nhận chuyện một người phụ nữ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và trở thành nữ vương trong khi ông chồng vẫn còn sống nên họ đã viết rằng Tô Định đã giết chồng Bà Trưng. Trong khi đó, cũng theo Taylor, những tài liệu Trung Hoa cho thấy rõ rằng ông Thi đã theo Bà Trưng khởi nghĩa\. (K. W. Taylor, sđd. tt. 38-39)

Về lý do thứ nhì, khi chú thích Hậu Hán thư của Phạm Việp, đến đoạn viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, thái tư? Hiền đã viết vào thế kỷ thứ 8:"...Giao Chỉ thái thú Tô Định dĩ pháp thằng chi, Trắc oán nộ cố phản..."(...Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật pháp trói buộc nên [bà] Trắc tức giận làm phản...).

Chữ "pháp" mà thái tư? Hiền dùng không phải chỉ một nghĩa hẹp là "pháp luật" mà chữ "pháp" ở đây có thể hiểu rộng hơn như là pháp chế, hoặc luật lệ về hành chánh, chính trị, cũng như kinh tế, văn hóa, phong tục. Nói một cách khác, Tô Định đã áp đặt mạnh mẽ chế độ cai tri. của Trung Hoa theo chính sách đồng hóa của nhà Hán (202 tr. CN-220), làm mất tự do của người cô? Việt, và Trưng Trắc đã nổi lên khởi nghĩa chống lại Tô Định. Về pháp luật, trong một đoạn nói về việc cai trị của Mã Viện sau khi dẹp Hai Bà Trưng, Hậu Hán thư (quyển 54, tr. 747) chép: "Điều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự." ( Luật dân Việt và luật nhà Hán khác nhau đến trên mười điều). Có lẽ Hậu Hán thư viết nhẹ nhàng là chi? có mười điều, nhưng nếu là mười điều căn bản tối quan trọng của tổ chức xã hội thì cũng đủ trở thành gông cùm trói buộc những người cô? Việt đang sống tư. do theo phong tục tập quán của mình.

Như vậy, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa vì ý chí độc lâp của dân tộc cô? Việt. Lý do nầy rất cao cả, chính đáng, và mạnh mẽ. Phải chăng khi nghĩ rằng việc bị pháp luật ràng buộc không đủ mạnh nên các sử gia chính thống ngày trước phải thêm chuyện thù chồng để việc nổi dậy thêm phần ý nghĩa\. Nói cho cùng chuyện thù chồng chỉ là chuyện cá nhân của mỗi người, chứ không phải là đại nghĩa của đất nước; huống gì ở đây chồng bà Trắc còn sống và cả hai cùng nổi dậy\. Cũng chính vì thêm việc thù chồng nên các tác giả của các bộ sử trên đây biên chép kết quả cuộc khởi nghĩa không rõ ràng.

Cần chú ý, lúc đó Mã Viện đã 70 tuổi và đã về hưu trí, nhưng vua nhà Hán phải mời Mã Viện ra cầm quân trơ? lại để bình định Cô? Việt, đủ thấy sức kháng cự của Hai Bà Trưng rất mạnh mẽ làm cho nhà Hán phải lo ngại gởi một danh tướng đi đánh dẹp.

3. Kết quả cuộc khởi nghĩa : Theo Hậu Hán thư, khi Mã Viện được vua Hán cử sang Giao Châu năm 41, thì vào mùa xuân năm sau, Mã Viện đụng trận với Hai Bà Trưng tại vùng Lãng Bạc. (theo Cương mục, Lãng Bạc là vùng hồ Tây, Hà Nội ngày nay) Bà Trưng cùng chồng thua chạy\. Mã Viện đuổi Bà Trưng đến Cẩm Khê, đánh thắng mấy trận, quân bà Trưng bị tan rã. (theo Cương mục, Cẩm Khê là vùng Sơn Tây ngày nay) Hậu Hán thư còn viết tiếp Mã Viện chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gởi đầu về Lạc Dương vào tháng giêng năm 43. (Hậu Hán thư, quyển 54, tr. 747) Toàn thư và Cương mục chép phần kết quả cuộc khởi nghĩa giống như vậy, nghĩa là Hai Bà Trưng thua chạy vào Cẩm Khê và dừng lại ở đây chứ không đề cập đến chuyện Hai Bà bị chém.

Trong Việt sử tiêu án, Ngô Thời Sĩ (1726-1780) viết: "...Trưng Vương thấy quân nhà Hán thế mạnh, tự nghĩ quân mình ô hợp sợ không chống nổi bèn lui về giữ ơ? Cẩm Khê\. Quân lính cũng nghĩ vương là người con gái, không thể địch với tướng Hán được, đều tự vỡ chạy\...Xét quân Hai Bà Trưng thua chạy đến núi Hy Sơn, rồi không biết đi đâu\..."(8)

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú (1782-1840) viết:"...Được ba năm, nhà Hán sai Mã Viện sang đánh. Vua [chi? Trưng Trắc] thấy quân Hán đông, tự xét không thể địch nổi, mới lui giữ Cẩm Khê\. Quân đều tan vỡ. Vua cùng quân Hán đánh nhau, thế cùng phải chết. Nước bị mất..."(9) Như thế, Phan Huy Chú đã viết rõ ra rằng Trưng Trắc bị thua, bỏ chạy vào Cẩm Khê, và từ trần mà tránh nói vì sao bà từ trần.

Qua bộ sử thi Đại Nam Quốc sử diễn ca, hai tác gia? Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái đã thi vị hóa cái chết của Hai Bà Trưng :

" Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cùng liều với sông."

(Đại Nam Quốc sử diễn ca, Trường Thi, Sài Gòn 1956, tr. 75) Trí tưởng tượng của hai thi sĩ trên được tác gia? Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng tô điểm thêm trong bài "Thân thế và sự nghiệp của hai bà Trưng" trên báo Tri Tân, số 38 ra ngày 11-3-1942, trang 219. Nguyễn Tường Phượng viết: "...Chị em Trưng Vương thất thế phải gieo mình xuống cửa sông Hát giang mà tự tận..."

Hình ảnh gieo mình xuống sông Hát có vẻ vừa hào hùng, vừa lãng mạn dễ trở thành đề tài cho thi ca nhạc kịch, và dễ được lan truyền trong trí tưởng tượng của quần chúng hơn là hình ảnh thân gái hy sinh nơi chiến trường, bị bắt chặt đầu một cách rùng rợn rồi gởi về Trung Hoa.

Với tinh thần của một người ngoại cuộc, tác gia? Keith Weller Taylor viết thẳng thừng rằng: "Mã Viện tiến đến Mê Linh, và vào cuối năm [42] đã bắt được Trưng Trắc cùng em là Nhị; vào tháng giêng năm sau, đầu của hai chị em được gởI về triều đình nhà Hán ơ? Lạc Dương."(The Birth of Vietnam, tr. 40.)

Có thể các sử gia người Việt ngày trước muốn tránh né một sự thật đau lòng và không mấy vẻ vang cho dân tộc Việt, nhưng việc Bà Trưng bị chết một cách thảm thương như vậy đâu có làm giảm oai linh của người nữ anh hùng dân tộc chúng ta\. Điều đó càng chứng to? Hai Bà Trưng đã quyết chiến đấu đến cùng, và hy sinh tính mạng trên chiến trường vì nền độc lập của dân tộc chúng ta.

Hai Bà Trưng là trường hợp người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống lại quân ngoại xâm giành lại nền độc lập cho dân tộc. Đó là một sự hy sinh vĩ đại của một bậc nữ lưu mà cổ kim đông tây không thấy có, và đời đời dân tộc Việt tưởng nhớ ghi ơn.

Khi đọc đoạn sử về Hai Bà Trưng, vua Tư. Đức đã ngư. phê: " Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sư? sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm dư! "(10)

CHÚ THÍCH :

1. Trong dụ ngày 12-7-bính thìn (12-8-1856), Tư. Đức viết: "...Việc Kinh Dương và Lạc Long mà Sử cũ đã chép, hoặc có hoặc không, dầu có nhưng không nên thảo luận đến là hơn cả, thế mà Sử cũ nhất luật chép bằng chữ lớn, và trong chỗ chép ấy lại phần nhiều mò mẫm những chuyện "ma trâu thần rắn", những thuyết hoang đường quái dị, không hợp lẽ thường..." (Quốc Sư? Quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, dụ chỉ tr. 9, bản dịch ban Nghiên cứu Văn Sư? Địa, Hà-Nội 1957, tập 1, tr. 20).

2. Cương mục tiền biên, quyển 1 tờ 14. Bản dịch tr. 61.

3. Cương mục tiền biên, quyển 1 tờ 18. Bản dịch tr. 63. Theo lời "chua" của quốc sử quán triều Nguyễn trong Cương mục tiền biên quyển 1 tờ 19, bản dịch tr. 64, Phiên Ngung ngày xưa thuộc quận Nam Hải, ngày nay là đất Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung-Hoa.

Cương mục tiền biên, quyển 2 tờ 4 và 5. Bản dịch tt. 78-79. Năm 208 (quý tỵ), Triệu Đà đưa quân sang xâm chiếm cô? Việt và sáp nhập cô? Việt vào Nam Việt. (Cương mục tiền biên, tờ 18, bản dịch tr. 63)

Ngô Thời Sĩ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt-Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Văn Sử tái bản, San Jose 1991, tr. 25. Cũng theo Ngô Thời Sĩ, vì Triệu Đà sáp nhập cô? Việt vào Nam Việt nên khi Nam Việt bị đổ và bi. nhà Hán sáp nhập vào Trung-Hoa, nước cô? Việt cũng bị họa lây. Do đó, theo Ngô Thời Sĩ, Triệu Đà chẳng những không có công gì với cô? Việt mà còn thủ họa cho cô? Việt nữa. (Sđd. tr.34)

Gần giống như tỉnh bang Quebec với thành phố Quebec, nước Mexico với thành phố Mexico

Tên Giao Chỉ có từ xưa, người Trung-Hoa dùng để chỉ vùng đất về phía tây nam xa ngoài đất Bách Việt(Toàn thư, lời mở đầu Ngoại kỷ). Đến đời nhà Tần, Giao Chỉ là Tượng quận (Cương mục tiền biên q.1 tờ 12). Đầu đời nhà Hán, tách Tượng Quận thành Giao Chỉ, Cửu Chân, và Nhật Nam (Ban Cố, Tiền Hán thư q.28 hạ, tt. 426-427). Trịệu Đà sáp nhập ba quận nầy vào nước Nam Việt.

Khi Lô. Bác Đức đem quân đánh Nam Việt năm 111 trước CN, chính quyền ho. Triệu ơ? Phiên Ngung chống lại quân nhà Hán, trong khi chính quyền ở quận Giao Chỉ đem sổ đinh ra nạp xin hàng. Do vậy nhà Hán gọi chung đất Nam Việt là Giao Chỉ bộ mặc dầu trong chín quận kể trên, chỉ có hai quận thuộc cô? Việt, sáu quận thuộc Quảng Châu (Cương mục tb. q. 2 tờ 4, bản dịch tr. 79)

Năm 203, nhà Đông Hán đổi Giao Chỉ bộ thành Giao Châu, ngang hàng với các châu khác bên Trung-Hoa (Cương mục tb q.2, tờ 30, bản dịch tr.96). Năm 264, nhà Ngô chia Giao Châu thành hai: Quảng Châu gồm Nam Hải, Thương Ngô, Uãt Lâm, đóng châu lỵ ơ? Phiên Ngung (Quảng Châu); Giao Châu gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật-Nam, Hợp Phố, đóng châu lỵ ơ? Long Biên (Thăng-Long, Hà-Nội) (Cương mục tiền biên 3, tờ 10, bản dịch tr. 105) Những đoạn về Thủy kinh chú và Hậu Hán thư trong bài nầy, trích dẫn từ sách Việt-Nam thời khai sinh của Nguyễn Phương, Phòng nghiên cứ Sử, Viện Đại học Huế, 1965. Về tác gia? Thủy kinh chú, sử gia Nguyễn Phương phiên âm là Lê. Đào Nguyên, tác gia? Đào Duy Anh phiên âm là Lê. Đạo Nguyên, nay theo phiên thiết của Từ hải là Lịch Đạo Nguyên.

Ngô Thời Sĩ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt-Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á Châu, Văn Sử, Hoa Kỳ 1991, tr. 40. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Nxb Khoa học Xã hội, Hà-Nội 1992, tập 1, tr. 187.

Cương mục tiền biên q. 2 tờ 12. Bản dịch tr. 84.

Source

The Hai Ba Trung Temple, Ha Loi, Vinh Phu

The Hai Ba Trung Temple, Hanoi
photo source: Heritage

Ðài kỷ niê.m Hai Bà Trưng tại công trường Mê Linh, Saigon tượng trưng hai vị anh thư Việt Nam.

Tượng bà Trưng Nhị quay mặt ra cưả biển trong một dáng điệu quả quyết nghiêm phòng. Tượng bà Trưng Trắc quay mặt về hướng Bác, một chân bước tới, kiếm tuốt ra nửa vỏ, sãn sàng tiê'n bước và nghinh chiến. Tay hai bà nắm lâ'y nhau, chặt chẽ và thân mến, trong một tinh thần liên kết bất di dịch. Hai bà quay lưng lại với nhau, đôi cặp mát nhìn bao quát cả một vòng chân trờị Tượng Hai Bà bằng đồng nạng 3 tâ'n và cao 5.2 thước. Bức tượng được đặt trên bê. 3 chân bàng xi-măng cốt sắt có gạch men mâu xám đen bao ngoàì, cao 10.6 thước.

Bức tượng được khánh thành nhân dịp lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng do Ngô Viết Thụ vẽ kiểu và Nguyễn Van Thế điêu khác.

Toàn thể đài kỷ niệm được đặt trên tâm điểm cuả công trường Mê Linh hình bán nguyệt và trung điểm của hồ hình bán nguyệt, đường kính 14 thước.

Lễ khánh thành đài kỷ niệm ngày 11/3/1962 và ngày 1/11/1963 bị Dân Quân Cách Mạng phá huỷ, vì lý do nhà điêu khác dùng hai chị em Trần Lệ Xuân và Trần Lệ Chi làm kiểu mâũ.

Tags: lịchsữ việt-nam(haibàtrưng)
Sunday March 29, 2009 - 12:56pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
LỊCH SỮ VIỆT - NAM ( VUA QUANG TRUNG )


Vua Quang Trung
Vua nhà Thanh bên Tàu mượn tiếng sang giúp vua Lê, sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn binh qua xâm chiếm Bắc Hà. Tướng Tây Sơn là Ngô văn Sở sợ thế yếu chống không nổi, bèn rút quân về đóng giữ ở vùng núi Tam Điệp.

Tôn Sĩ Nghị vào đóng ở thành Thăng Long, coi thường vua Lê Chiêu Thống, thả quân cướp phá dân lành.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được tin ấy bèn làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, niên hiệu Quang Trung, rồi tự mình thống lĩnh thủy bộ đại binh tiến ra Bắc. Ra đến Tam Điệp là ngày 20 tháng chạp, Quang Trung truyền cho quân sĩ ăn Tết trước, hẹn đến ngày mùng 7 tháng giêng vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Ngày 30 tháng chạp, vua Quang Trung thúc quân tiến nhanh như gió bão.

Đêm mùng 3 tháng giêng, quân ta vây kín đồn Hà Hồi. Quân Thanh trong đồn đang ngủ kỹ, không hay biết gì cả. Khi tiếng loa vang, quân lính cùng la ầm lên vang trời dậy đất. Quân Thanh kinh hồn hoảng vía, không dám chống cự phải xin đầu hàng cả.

Mờ sáng ngày mùng 5, quân ta tiến tới kịch chiến với quân Thanh ở Đống Đa, gần Hà Nội. Quân giặc bắn súng ra như mưa. Quang Trung chọn các người lực lưỡng khiêng những tấm ván to có quấn rơm ướt ở phía trước để che đỡ cho quân xung phong dùng đoản đao xông vào hãm đồn như nước vỡ bờ. Quân Thanh chống không nổi, xôn xao tán loạn, dày xéo lên nhau mà chạy. Quân ta đánh tràn tới, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang. Các danh tướng như Hứa Thế Hanh và Tôn Sĩ Long đều tử trận, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ chết.

Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được báo tin, vội vã bỏ thành Thăng Long tháo chạy, quên cả ấn tín, qua cầu sông Nhĩ Hà để chạy về Tàu. Quân sĩ chạy theo, tranh nhau qua cầu, cầu gãy, chết đuối đầy sông.

Trận Đống Đa là một chiến công oanh liệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Vua Quang Trung quả là một vị anh hùng cái thế của dân tộc Việt.
Tags: lịchsữ việt-nam(vuaquangtrung)
Sunday March 29, 2009 - 12:53pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
LỊCH SỮ VIỆT - NAM ( NGUYỄN THÁI HỌC )


NGUYỄN THÁI HỌC
(Trích trong Ḷch Sử Đấu Tranh Cận Đại, Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào)
ĐỜI HỌC SINH
ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
ĐỜI CÁCH MẠNG
ĐỜI T̀NH ÁI
NGUYỄN THị GIANG TỰ SÁT
GIA Đ̀ìNH NGUYỄN THÁI HỌC


***
ĐỜI HỌC SINH
Nguyễn Thái Học sinh năm Quý Mão (1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Nhưng theo học bạ nhà trường thì Nguyễn Thái Học sinh ngày mồng 1 tháng 12 năm 1904; sở dĩ có chuyện chênh lệch tuổi ấy là vì giấy khai sinh phải khai rút bớt tuổi, để xin vào học trường công cho hợp lệ.
Thân phụ của Nguyễn Thái Học là cụ Nguyễn Văn Hách, một nông dân chất phác hiền hậu, một nhà nho; thân mẫu là cụ Nguyễn Thi. Quỳnh hiệu diệu Tế, tính tình khảng khái cương trực, việc tề gia nội trợ rất mực thao lược đảm đang. Gia tài của gia đình Nguyễn Thái Học gồm có 3 mẫu ruộng, một con trâu cầy và 3 gian nhà gạch 5 gian nhà tre. Ngoài những ngày giờ làm ruộng, vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học còn phụ thêm nghề dệt vải và buôn vải, lụa về bán ngay tại chợ làng Thổ Tang.
Nguyễn Thái Học có một người em gái là cḥị Nguyễn Thi. Hiền và 3 người em trai: Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, và Nguyễn Văn Ni.
Năm 1906 Nguyễn Thái Học được thân phụ đưa đến thụ giáo Hán Văn tại nhà một cụ Tú tài người đồng hương.
Năm 1913, trường Tiểu học Pháp Việt được thiết lập tại phủ Vĩnh Tường. Nguyễn Thái Học xếp bút lông cầm bút sắt; học hết lớp nhì, Nguyễn Thái Học vào học lớp nhất tại trường Tiểu học Pháp Việt Việt Trì .
Năm 1921, trường Nam Sư phạm chính thức tuyển thêm 45 học sinh năm thứ nhất, nhân ḍip vừa mới khánh thành tại phố Đoă Hươu Ṿ gần Cửa Bắc.
Trong số 45 học sinh mới trúng tuyển có Nguyễn Thái Học. V́ mới tổ chức nên nhà trường chỉ có thể cho một nửa số học sinh chừng hơn 100 người được lưu trú tại trường; còn một nươa ở ngoài được lĩnh moăi tháng tám đồng học bổng.
Nguyễn Thái Học v́ tính thích tự do nên t́nh nguyện xin ở ngoài, trong khi học sinh tranh nhau ở trong trường để sự học được thuận tiện và mau tấn tới. Nguyễn Thái Học rủ mấy bạn đồng lớp đến ở trọ tại hai nơi gần trường; một ở ngay phố Đoă Hươu Ṿ và một ở phố Hàng Bún (Bourrin) cuơng gần đấy. Cùng ở trọ với Nguyễn Thái Học còn có một nhà giáo trẻ tuổi theo học trường Cao Đẳng Sư phạm là Hồ Văn Ṃch.
Học được ít lâu th́ xẩy ra một việc khiến cho một số học sinh có đầu óc phải bực tức mà nẩy nở ra ý tưởng cách mạng. Nguyên có tên Thược, một cựu thông ngôn lính chào mào ở Pháp về, được bổ vào làm giám tḥ. Thược có nhương cử chỉ ngôn ngươ rất lố lăng khả ố, và một thái độ thân Pháp khinh đồng bào, khiến cho nhiều người phải lộn tiết. Thược không nói tiếng Việt, khi cần nói với nhương người làm công ở trong trường, y dùng một thứ tiếng Việt pha giọng Tây, nghe rất đổi chướng tai.
Học sinh ai cuơng ghét Thược, nhiều người t́m hết cách cay độc để chế rieău, nhưng y vaăn cứ mặt rắn như sành không lay chuyển chút nào! Kỳ thực th́ Thược biết lắm và căm thù nhương anh em học sinh tinh quái nhất, trong số có Nguyễn Thái Học. Thược rắp tâm làm hại cho kỳ được, y biết được tên Kinh là con một tên mật thám y ngầm mua chuộc được Kinh và dùng làm chỉ điểm riêng cho y. Nhân có chuyện một học sinh ḅ Thược nhốt ở lầu 3 là nơi phòng ngủ (dortoire). Học sinh này cáu kỉnh la ó chửi rủa ầm yơ, khiến Thược phải cho người lên mở cửa, khi xuống, anh học sinh này lại xông thẳng tới Thược đ̣nh hành hung. Thược liền sang nhà riêng viên giám đốc, vu cáo học sinh này lăng mạ người Pháp và nhương câu bài Pháp. Viên Giám Đốc lập tức ra lệnh đuổi anh học sinh về một cách oan ức; và bắt luôn một số học sinh khác hàng ngày vaăn tỏ ý ghét Thược để điều tra và t́nh nghi có tổ chức bí mật bài Pháp. Nhiều người ḅ đuổi oan, và trong trường boăng phát sinh một luồng không khí ngờ vực rất khó thở; nhất là sau khi có lệnh cấm học sinh không được phép tụm năm tụm ba bàn chuyện. Sự kiện trên đaơ có ảnh hưởng khá sâu xa vào tâm hồn cách mạng của Nguyễn Thái Học.
Tâm hồn đó càng ḅ khích động hơn do thái độ kém giáo dục của mấy mụ đầm dạy học, như mụ Sandré mà học sinh đaơ đặt cho một biệt hiệu là "đầm sâu róm", v́ tính nết cục cằn hay gắt hay quát tháo ầm ĩ của mụ. Một phía khác, tâm hồn đó cuơng lại ḅ khích động do nhương thái độ dơ dáng của bọn phụ nươ buôn son bán phấn ở khu phố anh ở, hòa với nhương hành động hung haơn của bọn lính tây ức hiếp đồng bào để làm trò cười cho chúng.
Do đó Nguyễn Thái Học tỏ ý chán việc học mà anh thường kêu là "học mướn". Anh không cḥu học sử nước Pháp, nhưng đến khi học tới ḷch sử cách mạng Pháp th́ anh lại rất thích thú, rất ham đọc và còn khảo cứu thêm.
Cứ moăi lần mụ "đầm sâu róm" dậy ám tả vào buổi sáng là y như mụ mở túi lấy mẩu bánh ḿ, miếng phó mát và trái chuối tiêu ra, vừa đọc vừa ngồm ngoàm ngốn; v́ thế cho nên không mấy người nghe được hết câu, leơ dĩ nhiên là ai nấy bỏ loăi rất nhiều.
Moăi lần như thế, anh Học lại tỏ veơ giận dươ, nhưng không biết làm thế nào cho mụ bỏ cách dạy học đó đi, thỉnh thoảng anh chỉ dằn mạnh bút xuống bàn tay hay ngáp thật lớn. Mụ Sandré biết vậy, nhưng cuơng cứ bỏ qua. Một hôm anh Học nghĩ được một kế để chọc giận mụ, anh không viết nhưng lại nhắm mụ để họa h́nh mụ đang ngồm ngoàm ăn. Thấy vậy mụ to tiếng gọi:
- Anh Học, anh ngồi g𓊍n cửa sổ kia, anh nhắc lại câu tôi vừa đọc.
Leơ dĩ nhiên là anh Học không đọc được, anh còn đương lúng túng đ̣nh lấy vở của bạn bên cạnh để đọc, th́ mụ lại quát:
- Mang vở của anh lên xem nnào.
Anh Học không ngần ngại mang vở lên. Mụ cầm vở quát on xòm:
- Cái ǵ thế này! rồi mụ cầm vở của anh Học giơ cao lên cho học trò xem, cả lớp cười ồ. Anh Học vaăn điềm nhiên. Mụ quay lại hỏi:
- Anh bao nhiêu tuổi mà coi ngᅐời lớn thế! Nom không có vẻ học sinh tý nào!
Anh Học trả lời thong thả từng tiếng:
- Tôi 45 tuổi.
Mọi người cười vang. Mụ cáu kỉnh lại quát:
- À thằng này láo! Mày lại nhạo tao phải! ai đời 45 tuổi mà đi học trường Sư phạm bao giờ không?
Thấy anh Học vaăn chân chân đứng. Mụ càng bực ḿnh:
- Anh sinh năm nào?
> - Tôi sinh năm Bính Th́n.
Mọi người lại cười ồ. Mụ cáu:
- Bính Th́n, Bính Th́n là cáii ǵ?
Anh Học vaăn đứng tự nhiên. Mụ kéo ghế đứng dậy chỉ vào mặt anh nói với mọi người:
- Ḱa coi ḱa, thật là nhà quê! rồi quay lại hỏi anh Học:
- Mày quê ở làng nào?<
- Tôi quê ở làng "â..h..&quoot; Anh Học trả lời hết sức b́nh tĩnh.
Mọi người lại ph́ cười. Tuy mụ đầm không hiểu ra sao, nhưng thấy mọi người cười dươ quá, biết chắc câu trả lời có ý hoăn xược, mụ xầm xầm bước xuống bục tiến lại nắm lấy tay anh Học, nói:
- À thằng này láo, xuống buuồng ông Giám đốc ngay với tao.
Anh Học ung dung đáp:
- Vậy tôi xin đi trư𓁋c.
Vừa ra khỏi lớp, không hiểu nghĩ thế nào, mụ đầm lại lôi tay anh Học trở vào lớp, đẩy anh ngồi vào choă, rồi lại tiếp tục đọc ám tả, như không có chuyển ǵ xẩy ra: nhưng mụ không còn ngồm ngoàm nươa! nhặt mẩu bánh ḿ, miếng phó mát ăn chưa hết quẳng qua cửa sổ.
Đến cuối năm thứ 3 Nguyễn Thái Học từ giaơ trường Sư phạm về nằm khàn ở nhà, ḅ Chính phủ Bảo hộ đòi lại khoản trợ cấp học bổng 3 năm.
Nằm nhà đọc sách, đến kỳ thi Đíp lôm, Nguyễn Thái Học cuơng nộp đơn ứng thi. Ngay buổi đầu thi ám tả, anh đaơ gặp phải viên Giám khảo người Pháp hóc búa, không có cảm t́nh với học sinh bản xứ là Thomas, đaơ đọc ám tả cho thí sinh, mà Thomas chỉ đọc moăi câu một lượt không nhắc lại. Cả phòng đều thất vọng, thí sinh nào cuơng bỏ từng quaơng.
Đến gần nươa bài, Thomas thấy một thí sinh lớn tuổi mặc áo the thâm, tay xách muơ trắng, tay cuốn giấy thi vùng vằng tiến ra cửa.
Thomas quát hỏi:
- Ê! Anh kia đi đâu thế;?
- Tôi đi ra, v́ không th𓎷 thi cử như thế này được, Nguyễn Thái Học trả lời.
Thomas lại tròn mắt hỏi dươ dội:
- Tại sao?
- Ông đọc nhanh quá, mà l𓀑i đọc có một lượt, tôi không theo ḳp, tôi xin bỏ cuộc.
Sao người khác viết được?
- Xin ông thử nh́n xem, có bbao nhiêu viết ḳp?
Thấy anh Học đối đáp bướng bỉnh. Thomas bước xuống túm vai anh Học xoay một vòng, đẩy anh về choă. Vừa quay lưng lên bục, đaơ lại thấy anh Học theo sau, và lăm le ra cửa phòng thi ra ngoài. Thomas lại quát:
- À! Anh này đ̣nh làm ǵ; thế này? Anh muốn tôi cho gọi Cảnh binh daăn anh vào nhà giam không?
Anh Học điềm tĩnh trả lời:
- Vậy tôi xin ông cho tôi ra ngoàài, tôi bỏ cuộc thi, và nếu ông không đi gọi Cảnh binh, chính tôi cuơng xin đi gọi hầu ông ngay bây giờ.
Thomas giận đến tái mặt không biết nói thế nào, lại thấy anh Học nét mặt gân guốc quả quyết, khó lòng bắt nạt nổi. Y sợ lại xẩy ra chuyện tương tự như việc đaơ xảy ra cho y ở trường Chasseloup Laubat ở trong Nam (1).
_____
1. Nguyên Thomas trước kia làm giáo sư tại trường Trung Học Chasseloup Laubat ở Saigòn, v́ thái độ ngạo ngheă, và cách dậy học trò mất dậy của y, mà đaơ ḅ học sinh trường đó đánh cho một trận đòn nên thân. Sau đó Thomas ḅ đổi ra Bắc dậy trường Bưởi.
_____
Thomas ḍu giọng bảo anh Học:
- Thôi được, anh c𓔉 về choă, anh seơ được toại nguyện.
Thomas bảo anh Học về ngồi choă cuơ, rồi mở cửa đi ra. Ai cuơng tưởng là Thomas seơ đi gọi cảnh binh tới daăn anh Học đi, hay ít ra cuơng đi tŕnh ông Chủ khảo, nhưng mọi người đều đoán sai hết. Một lát sau, Thomas cùng với một ṿ giáo sư khác, người Việt Nam là ông Dương Quảng Hàm vào phòng thi. Thomas nhường choă cho ông Hàm đọc lại từ đầu bài ám tả. Nhờ đó mà một số thí sinh đaơ không ḅ rớt oan.
Nhương maău chuyện này đaơ biểu lộ một tinh thần tranh đấu bất khuất, gặp sức đè nén nào cuơng t́m cách phản ứng ḳch liệt và nhanh chóng không tính toán đến hậu quả.
Dĩ nhiên là Nguyễn Thái Học không trúng tuyển kỳ thi ấy, lại nhân có kỳ thi tuyển thừa phái, các bạn khuyên anh nên ứng thi, anh Học đaơ trúng tuyển, nhưng đến khi đó ngḥ đ̣nh bổ đi nhậm chức, anh Học đaơ bọ không đi, mà lại xin vào học tại trường Cao Đẳng thương maơi.
Trong cuốn "Mesures politiques en l'Indochine", Marty Giám đốc mật thám Đông Dương đaơ viết: "Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bĩnh hay caơi nhau với thày giáo".


ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyễn Thái Học vóc người tầm thước đậm đà, cao 1m65, mặt vuông trán rộng, miệng rộng môi dầy, râu quai nón, hai tai to và dài, đặc biệt là răng vồ, nhưng cười tươi và có duyên, tính t́nh hồn nhiên phóng khoáng, thẳng thắn cương quyết và có một đức tự tin lạ lùng.
Cuộc đời sống của Nguyễn Thái Học thực rất suềnh soàng giản ḍ, từ y phục đến giầy dép không hề chải chuốt; ngoài thú hút thuốc lào và thỉng thoảng nhai trầu, không thích một thứ ǵ khác! Nguyễn Thái Học rất b́nh ḍ, mieăn là ăn để sống, món ăn thích thú nhất của ông là món "Phở Bò" suốt đời không ham muốn cao sang. Về tiền tài: moăi khi trong túi có tiền là giốc hết tiêu chung với anh em, khi cạn túi cuơng hỏi ở anh em lấy một cách tự nhiên không ngại ngùng e lệ. Giấc ngủ đối với Nguyễn Thái Học thực rất là quan trọng, khi buồn ngủ, mặc dầu gặp việc khó khăn đến đâu cuơng phải ngủ, daău rằng chỉ một giấc ngắn độ 15 phút, ngáy thật to. Khi tỉnh dậy, giải quyết mọi việc rất sáng suốt và chu đáo. Khi ngủ thường hay nằm sấp, hai chân quắp lên trên mông.
Tuy đaơ ra đời lâu năm, Nguyễn Thái Học còn giươ thổ âm của làng ḿnh, là dùng lộn hai chươ L với N. Còn một tính đặc biệt, là moăi khi đương tập trung suy nghĩ một vấn đề ǵ, th́ mặc dầu nhương người ngồi ngay trước mặt nói chuyện hoặc hỏi han đieu ǵ, cuơng không hề để ý nghe.
Nguyễn Thái Học có một người vợ ở quê nhà là Nguyễn Thi. Cửu do sự đính ước của đôi bên cha mẹ khi Nguyễn Thái Học còn thơ ấu. Tuy cḥ Cửu về làm dâu nhà họ Nguyễn lâu năm; nhưng cặp vợ chồng ấy không bao giờ lại chung sống với nhau. Đến khi Nguyễn Thái Học dấn thân vào cuộc đời cách mạng, Thái Học gửi thư về thăm cha mẹ, tạ tội bất hiếu không năng về thăm; cuối cùng xin phép cha mẹ cho cḥ Nguyễn Thi. Cửu được tự do đi lấy chồng.


ĐỜI CÁCH MẠNG
Về hoạt động cách mạng lúc ban đầu của Nguyễn Thái Học. Tác giả tŕnh bày đầy đủ ở chương I, Thiên thứ nhất, dưới Mục đề "Thành lập V.N.Q.D.Đ.". Nay nhắc lại, thiết tưởng là quá thừa. Vậy xin tŕnh bầy tiếp từ sau ngày Nam Đồng Thư Xaơ đóng cửa, nhà giáo Phạm Tuấn Tài phải đổi lên trường Tiểu học Pháp Việt Tuyên Quang vào giươa năm 1927. Nguyễn Thái Học cùng Hồ Văn Ṃch dọn đến ở luôn trụ sở Nam Đồng Thư xaơ với Nhượng Tống. Họ đaơ trở nên nhưng người bạn cùng ăn hết nḥn với nhau.
Từ sau ngày V.N.Q.D.Đ chính thức thành lập. Căn lầu I Nam Đồng Thư xaơ trở nên trụ sở thường trực của Tổng bộ. Lớp nhà dưới là gia đ́nh bà Cổ, làm nghề bán sôi, cháo rong và luôn nấu cơm tháng cho Nguyễn Thái Học và các đồng chí của họ Nguyễn ăn.
Căn lầu của Nguyễn Thái Học ở, bề dài không quá 9 mét, bề ngang 3 mét rươơi, vỏn vẹn chỉ có một bộ ghế ngựa goă tạp, 1 chiếc bàn và 4 chiếc ghế cuơng bằng goă tạp, vừa dùng làm bàn viết laăn bàn ăn; góc này vài chiếc chiếu vất ngổn ngang, góc kia mấy chiếc va li bẹp với một mớ quần áo thay, mà thợ giặt chưa ḳp đến lấy.
Moăi khi các đồng chí từ bốn phương tới thủ đôi đều t́m đến từng lầu số 6 này. Trước khi thổi cơm, bà Cổ ở dưới nhà thường sai cô gái nhỏ của bà 13,14 tuổi, thò đầu lên cầu thang gác hỏi bươa nay có mấy người ăn?
Cơm bưng lên, anh em cứ việc ăn, cơm b́nh dân, moăi người moăi bươa có 5 xu. Bà Cổ cứ việc ghi vào sổ, cuối tháng seơ tính với ông Học sau. Chẳng mấy tháng mà bà Cổ đaơ nhận được đủ số tiền, nhưng bà vaăn vui vẻ bưng cơm giót nước như thường, không bao giờ có nửa lời ta thán. "Bát cơm Phiếu maău giaơ ơn ngàn vàng". Chúng tôi nghĩ thế, nhưng chẳng bao giờ làm được. Trái lại, bà còn ḅ thực dân làm khó deă v́ chúng tôi.
Các đồng chí, ai muốn nghỉ ngơi chốc lát hay muốn ngủ lại đêm cứ việc trải chiếu xuống văn gác mà nằm, nếu giường chật. Quần áo thay đổi laăn lộn, bộ nào vừa ai nấy mặc, không cần biết là của ai. Đồng chí nàok nếu túi sẵn tiền th́ bỏ ra khao nhau chầu phở hay bún chả, nếu gặp khi anh em đều túi roăng, th́ cứ việc gọi sôi, cháo của bà Cổ, rồi biên vào sổ tính sau.
Nguyễn Thái Học luôn luôn khuyên nhủ đồng chí: "Chúng ta phải gạt bỏ hết nhương tính ích kỷ và tự ái, tự kiêu, th́ chúng ta mới trở thành người cách mạng được."
Muốn biết roơ Nguyễn Thái Học không ǵ hơn là nghe lời b́nh phẩm của Hồ Văn Ṃch (1) một người bạn thân, một đồng chí đầy mưu lược, luôn luôn ở bên cạnh Nguyễn Thái Học nói: "Anh Học bề ngoài tuy nóng nảy, nhưng mưu việc ǵ th́ rất nhiều cơ trí, mà đaơi người th́ rất mực chân thành."
Thực quả vậy, sau ngày Đảng ḅ bại lộ, Nguyễn Thái Học trốn thoát. Một hôm có cuộc họp được triệu tập tại làng Dương Quang thuộc phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh. Các đồng chí đaơ tiếp tục đến đ̣a điểm họp từ chiều hôm trước. Thám tử được tin mật báo với Pháp, đêm ấy Giám Binh Bắc Ninh đem lính khố xanh bí mật đến mai phục xung quanh làng Dương Quang.
Nguyễn Thái Học không hề được biết sự bao vây ấy. Sáng sớm ngày hôm sau, khăn đống áo the, tay ôm cặp tay ô, ung dung tiến đến làng Dương Quang. Th́nh ĺnh gặp lính xét hỏi, Thái Học thản nhiên trả lời là nho sĩ ở huyện được phái về lập biên bản. Từ dáng điệu đến cử chỉ thực giống hệt như nho sĩ ở huyện. Lính khố xanh không chút nghi ngờ, để Nguyễn Thái Học tự do đi. Nguyễn Thái Học ung dung tiến vào làng, rồi t́m đường rút ra khỏi vòng vây. Trái lại, Phạm Văn Hể đến từ chiều hôm trước, gần sáng thấy động, hoảng hốt chạy ra khỏi làng, ḅ lính t́nh nghi giươ lại, đem về giam tại Bắc Ninh, maơi ít lâu sau mới được thả ra.
______
(1) Hồ Văn Ṃch dáng người nhỏ nhắn, tư chất thông minh, tính t́nh quả cảm. Nguyên quán tại làng Đồng Hỷ, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Xuất thân làm giáo học, được ít lâu Hồ Văn Ṃch xin nghỉ để theo học lớp Cao đẳng Sư phạm.
Sau vụ ám sát Bazin tháng 2 năm 1929, Hồ Văn Ṃch ḅ bắt giam, Hội đồng Đề h́nh kết án 10 năm cấm cố lưu đày ra Côn Đảo.
Trước ngày ḅ giam, Hồ Văn Ṃch đaơ mắc bệnh lao phổi, nên đaơ tạ thế tại Côn Đảo ngày mồng 8 tháng 4 năm 1932. Ở đây anh em có dựng trên mộ một tấm bia bằng xi măng, khắc mấy chươ "Hồ Văn Ṃch 1930" làm kỷ niệm.
______
Lại một lần khác, vào cuối tháng 11 năm 1929, tại làng Quỳnh Khê thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dưng, một cuộc họp được tổ chức tại nhà một đồng chí là Phó tổng Ṿnh. Có mật báo, tri huyện sở tại là Nguyễn Ngọc Lieăn đem lính cơ về vây làng Quỳnh Khê từ hồi 4 giờ sáng, đợi đến 6 giờ sáng vào khám xét nhà Phó tổng Ṿnh.
Nguyễn Thái Học đương ngủ ngáy như sấm, đồng chí vào lay ông báo động, lay đến 2,3 lần ông mới tỉnh dậy, điềm nhiên đi xuống phía nhà tá điền ngủ, trút bỏ hết quần áo lại, lấy bộ quần áo của thợ cầy mặc vào, rồi đội nón lá vác vồ tiến ra phía ruộng sau nhà Phó Tổng Ṿnh cùng đập đất với sáu nông phu.
Đúng 6 giờ, Tri huyện Lieăn daăn lính vào khám xét nhà Phó tổng Ṿnh, không thấy ǵ kéo nhau ra về.
Một hôm Nguyễn Thái Học phải đích thân xuống Hải Phòng để chủ tọa một phiên họp quan trọng.
Ông bắt đầu đáp xe lửa từ ga Lạc Đạo vào hồi 4 giờ 20 phút sáng. Y phục vận theo đúng kiểu các người dân quê Đ́nh Dù moăi khi ra tỉnh: quần màu cháo lòng, áo the thâm và khăn đóng, vai vác cây dù, nách kẹp đôi dép.
Đaơ đặc biệt chú ý từ trước, khi lên xe, Nguyễn Thái Học đaơ lựa choă ngồi vào chiếc ghế toa hạng ba, nơi ánh đèn bớt sáng.
Không ngờ khi xe lửa sắp chạy, th́nh ĺnh có hai tên thám tử: một Việt và một Pháp lại daăn một người ḅ còng tay lên ngồi đối diện anh. Thoáng nh́n, Nguyễn Thái Học đaơ nhận ngay ra người ḅ còng tay là một đồng chí, anh Lý Kim Hai ở Chi Bộ Nam Quách (Hải Dương).
Một chi bộ đaơ ḅ vơơ lơơ, và lo ngại Hai Kim nhận ra anh, lơơ phát xuất một cử chỉ nào sơ hở, khiến anh ḅ lộ h́nh tích th́ nguy to. Nguyễn Thái Học đ̣nh xuống xe đi chuyến sau; nhưng xe lửa đaơ bắt đầu chuyển bánh nhanh rồi. Muốn lánh mặt qua ngồi toa xe khác, th́ phải đi qua mặt hai tên thám tử, mà chúng thường chăm chú nh́n theo, thật là tiến thoái lươơng nan! Nguyễn Thái Học đành kéo vạt áo the che mặt giả vờ ngủ.
Về phần Lý Hai Kim, anh cuơng nhận ra được Nguyễn Thái Học, ngước nh́n Học tỏ vẻ hiểu ý.
Để xe lửa chạy một hồi lâu, Nguyễn Thái Học đứng dậy, dẵn giọng nói với bà già ngồi kế bên, có ý để cho hai tên thám tử và anh Hai Kim nghe được:
- Bà coi giùm tôi chiếc dù và chiiếc va li này, tôi đi tiểu một chút.
Rồi anh thản nhiên đi thẳng về phía cầu tiêu, mặc cái nh́n chòng chọc soi mói của tên thám tử Pháp lai.
Thừa khi xe lửa từ từ tiến tới ga Vật Cách, Nguyễn Thái Học vột trút bỏ chiếc áo the dài thâm, rồi mở cửa cầu tiêu nhảy xuống đường kêu xe kéo thuê đi Hải Phòng.
Khi người phu xe tới gần cầu Hạ Lý nhận xét t́nh h́nh, thấy không thể nào qua cầu đàng hoàng được, v́ thấy lính gác cầu rất đông. Nguyễn Thái Học liền tỏ vẻ thân thiện điều đ́nh với người phu xe cho anh thuê lại chiếc xe cùng bộ quần áo với giá 35 đồng bạc, gồm cả tiền bảo đảm chiếc xe khi không may ḅ mất.
Nguyễn Thái Học lẳng lặng kéo chiếc xe không trên cầu từ phía Hạ Lý sang.
- Anh kia, sao không đi vào l𓎵 mà lại nghênh ngang giươa đường, muốn xe lửa cán chết phải không? Người cảnh binh gác cầu quát to.
Anh kéo xe gần tới lề đường, cách đấy vài chục thước, một tên thám tử mặc thường phục, vaăy Nguyễn Thái Học lại.
- Có giấy tờ ǵ không?? Lại đây coi!
- Chào xếp, xếp có về;, tôi kéo về, tôi vaăn kéo xếp đến sở làm đấy mà! Nguyễn Thái Học đáp.
Lời chào leă phép, bất ngờ làm tên thám tử ngạc nhiên, đang phân vân tự hỏi, có leơ đây chính là anh phu xe quen.
Giươa khi ấy từ phía bên kia cầu, một chiếc xe hơi mui trần trong có mấy người Pháp đang bon bon đổ dốc.
- Ô tô ḱa! dẹp vào bên mà &đi đi! tên thám tử ra lệnh.
Dưới chân cầu Hạ Lý về Hải Phòng, một quán nước chè có một thanh niên và một thiếu nươ ăn vận lối quê ngồi đợi Nguyễn Thái Học từ lâu, ấy là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Thi. Giang.
Đến trước quán nước, người phu xe ngừng lại, nói với thanh niên trong quán: "Mời ông đi xe".
Nguyễn Văn Chấn đứng dậy, ung dung bước lên xe và nói to:
- Về phố đư𓒣ng Cát Cụt.
Về tới nơi an toàn, anh em đều vui cười và nói:
- "Haơy giươ l𓉭y bộ quần áo phu xe kia, để sau này giao cho Viện Bảo Tàng".
Thế rồi không bao lâu cuộc Tổng khởi nghĩa ḅ thất bại. Boăng có tin Nguyễn Thái Học ḅ bắt ở ấp Cổ Ṿt đưa về giam tại ngục thất Hỏa lò Hà Nội. Và dưới đây là một vài giai thoại về Nguyễn Thái Học:
Giới phụ nươ Pháp ở Hà Nội yêu cầu Arnoux giám đốc sở mật thám Bắc Việt cho họ được đi coi mặt muơi nhà laơnh tụ V.N.Q.D.Đ mà từ ngày Tổng khởi nghĩa họ vaăn lo sợ cho số phận của họ không biết seơ ra sao?
Arnoux vốn muốn trưng với phái đẹp, và cuơng muốn nhân ḍp khoe công, nên y nhận lời cho họ đi coi mặt Nguyễn Thái Học. Arnoux thân daăn vào ngục thất Hỏa lò một đoàn hàng trăm phụ nươ Pháp. Cửa sà lim mở ra, một ả đầm chừng 20 tuổi buột miệng nói:
- Où! Où! Où est le Général Nguyễ;n Thái Học? (Ông tướng Nguyễn Thái Học đâu?)
Arnoux chặn lời ả và nói:
- Il n'est qu'un chef de brigands (Nó cchỉ là một tên tướng ăn cướp!)
Nguyễn Thái Học nghe tiếng nghiêm mặt nói:
- Ông Arnoux, ông haơy nên có le&##259; độ một chút!
- Leă độ à! đây annh biết leă độ!
Vừa nói, y vừa giơ cây ba toong đánh vào mặt nhà laơnh tụ cách mạng rất mạnh, trúng vào hàm răng, máu trào ra đầy miệng, làm Nguyễn Thái Học gaăy mất hai cái răng cửa.
Chân ḅ cùm tay ḅ còng, Nguyễn Thái Học mỉm cười nói:
- Tao đaơ thấy roơ; bộ mặt văn minh của nước Pháp chúng mày là thế đấy.
Than ôi! mối hận thù đối với bè luơ thực dân Pháp biết đến ngày nào quên đi được; hơơi anh em cách mạng quốc gia.
Giươa lúc ấy, một mụ đầm nạ giòng đang ôm con chó lông xù sửng sốt về câu trả lời của Nguyễn Thái Học, lơơ tay làm con chó nhẩu xuống đất chạy tung tăng trong giaăy hành lang; Arnoux vội vàng đuổi theo bắt con chó ôm nó lên và kính cẩn trao lại cho bà chủ nó. Đám phụ nươ nh́n Nguyễn Thái Học một lúc rồi kéo nhau ra.
Ngoài số phụ nươ Pháp và nhương yếu nhân trong giới thực dân Pháp; còn có một người Việt Nam được vào xem mặt Nguyễn Thái Học là Hoàng Trọng Phu Tổng đốc tỉnh Hà Đông.
Ông qua công bộc trung thành nhất của Pháp này theo chân viên Dự thẩm Coppin tới xà lim giam Nguyễn Thái Học. Cửa phòng vừa mở, chỉ vào mặt một người nằm ngửa trên sà lim, hai chân xỏ trong loă cùm, hai cổ tay xích bắt tréo lại, mắt nh́n lên trần suốt ngày đêm. Coppin nói:
- Thưa đại nhân, tôi xiin giới thiệu đây là kẻ đaơ làm cho cháu ruột của ngài ḅ giết!
Hoàng Trọng Phu như không chú ý câu nói ấy, hỏi luôn Nguyễn Thái Học rằng:
- Thày ḅ bắt trong lúc còn súng lục lựu đạn ở trong người, vậy sao thày lại không dùng voơ khí ấy mà thoát thân?
- Chỉ v́ tôi không muố;n giết mấy người phu tuần đaơ bắt tôi, bởi họ chỉ là nhương kẻ thừa hành chỉ Thi. của bọn quan thày Pháp; nếu tôi gặp bọn tham quan ô lại đục khoét lương dân, th́ súng và lựu đạn của tôi seơ không từ!
Hoàng Trọng Phu mỉm cười ra về không nói câu nào nươa!
- Ngày mồng 2 tháng 3, Hội đồng Đề h́nh Bắc Việt cho phép gia quyến Nguyễn Thái Học được vào ngục thất Hỏa lò thăm. Nguyễn Thái Học lậy tạ mẹ già rồi nói: "Đắc trung thất hiếu, xin mẹ tha thứ cho con."


ĐỜI T̀NH ÁI
Từ sau vụ ám sát Bazin, Nguyễn Thái Học đeo hai cái án xử vắng mặt với trát truy nả rất gắt gao đến các hang cùng ngoơ hẹp. Nguyễn Thái Học luôn luôn phả hóa trang, khi khóac áo cà sa, đóng vai nhà tu hành khổ hạnh đi khuyến giáo, lúc khoác áo thương nhân đóng vai bác lái trâu, lái thuốc lào; hoặc anh nông phu vác cuốc vồ ra đồng làm ruộng; đôi khi còn hóa trang giả phụ nươ ra đồng nhổ mạ cấy lúa; Cuơng có khi đóng vai ông lý Đ́nh Dù vác chiếc ô rách đi chơi Kinh Kỳ thăm bà con họ hàng.
Gặp bao hoàn cảnh khó khăn! Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng hăng say hơn bao giờ hết! Công tác chính là công tác kiện toàn lại Đảng tiến tới giai đoạn cấp bách Tổng khởi nghĩa. Vấn đề liên lạc luôn phải thay đổi đồng chí để tránh tai mắt nhòm ngó của mật thám. Nên từ đấy được ủy thác cho mấy nươ đảng viên: Đoă Thi. Tâm, Nguyễn Thi. T́nh, Nguyễn Thi. Thành, Nguyễn Thi. Bắc, Nguyễn Thi. Giang... Cô Giang là nươ liên lạc đứng vào hạng xuất sắc nhất. Không nhương thế! Cô Giang còn là một nhà tuyên truyền giỏi, tổ chức được Binh đoàn Yên Bái, Binh đoàn này làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa đêm mồng 9 rạng mồng 10 hồi tháng 2 năm 1930.
Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng mạnh meơ trong thời kỳ ấy, một phần lớn là nhờ sự giúp đơơ của nhân dân; và cuơng một phần phải nhờ ở tai mắt và sự khuyên ngăn khuyến khích của Nguyễn Thi. Giang; và một đồng chí luôn luôn ở bên cạnh bảo vệ là Sư Trạch; hai người này là hai cánh tay của Nguyễn Thái Học vậy. Nhiều khi Thái Học phải cải trang tạm lánh ở vùng Hòa B́nh, Ninh B́nh, Phú Thọ, nơi rừng núi bao lao. Nguyễn Thi. Giang luôn đem tin tứ cho Thái Học, và lại đem chỉ Thi. của Thái Học truyền đi các nơi. Bất cứ một công tác nào, dầu khó khăn đến đâu được Đảng trao phó, cô Giang đều thi hành có kết quả.
Theo điều lệ V.N.Q.D.Đ th́ không kết nạo phụ nươ vào Đảng, mà chỉ có sự kết nạp vào Đoàn. Trường hợp Nguyễn Thi. Bắc và Nguyễn Thi. Giang là một trường hợp đặc biệt. V́ trước ngày thành lập V.N.Q.D.Đ hai cô Bắc Giang đaơ ở trong tổ chức cách mạng bí mật của cụ Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang. Đến khi cụ Nguyễn Khắc Nhu thám gia V.N.Q.D.Đ th́ lý đương nhiên cả tổ chức của cụ, cuơng đều được tham gia V.N.Q.D.Đ
Bắc, Giang, Tỉnh, là ba cḥ em ruột, con một nhà nho ở Phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Vốn nhà thanh bạch, nhưng cả ba cô đều có công, dung, ngôn, hạnh hoàn toàn. Hai cô cḥ lại được học ít nhiều Hán văn, chươ Pháp theo hết bậc tiểu học. Cô Giang lạ thông minh sắc sảo và tài ba hơn cô cḥ nhiều. Mặt hơi roă huê, nhan sắc tuy không đẹp lắm, nhưng duyên dáng và ḷch sự vô cùng. V́ nhà nghèo nên cô phải thôi học sớm, về làm nghề dạy trẻ em, nên người ta thường gọi là cô giáo Giang.
Một đôi trai tài gái sắc, lại cùng chung chí hướng, cùng cảnh ngộ, cùng có ḍp gần guơi bên nhau luôn, nên chẳng mấy lúc đaơ nẩy lên nhương tiếng đàn đồng điệu. Họ đaơ cảm thông và đồng quan điểm như nhau, họ cảm thấy yêu nhau, và đaơ cảm thấy không thể xa cách được nhau.
Một buổi chiều hè, trên đường từ Phú Thọ về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Thi. Giang cùng ghé vào đền Hùng Vương để hội đàm với Phó Đức Chính, Lê Hươu Cảnh và Đặng Trần Nghiệp. Sau khi họp bàn xong, Học và Giang rủ nhau ra ngoài hóng gió.
Đêm đaơ vào khuya, Lê Hươu Cảnh bước ra sân đền, với ý đ̣nh gọi hai người vào ngủ. Cảnh thấy Thái Học v́ quá mệt mỏi đaơ ngồi tựa lưng vào gốc cây ngủ say, bên cạnh cô Giang ngồi tay phe phẩy quạt xua muoăi và trông chừng. Lê Hươu Cảnh lặng leơ quay gót vào mật bàn với Phó Đức Chính và Đặng Trần Nghiệp: có ḍp thuận tiện nên yêu cầu Đảng bộ cho phép Học Giang được thành đôi lứa kết hôn.
Một lần khác lại có ḍp qua đền Hùng Vương. Thái Học cùng Cô Giang vào chiêm bái, trước bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút, hai người cùng nhau thề thốt nặng lời. Thề thế nào cuơng lấy nhau nhưng seơ chỉ thành chính thức sua khi cách mạng thành công, và được Đảng cho phép. Thấy Nguyễn Thái Học đeo khẩu súng lục, cô Giang xin được đeo, để sau này nếu Nguyễn Thái Học có v́ Tổ quốc mà mệnh hệ nào! th́ Giang cuơng quyết dùng khẩu súng này để chết theo!
NGUYỄN TH̉ GIANG TỰ SÁT
Cuộc Tổng khởi nghĩa thất bại. Quay về Bắc Ninh, Bắc Giang, Nguyễn Thi. Giang đang chuẩn ḅ việc đánh chiếm một đồng binh Khố Xanh để làm căn cứ đ̣a; th́ được tin Nguyễn Thái Học đaơ ḅ bắt, ban đầu cô còn nghi ngờ, v́ rất có thể thực dân cho phao đồn tin ấy để trấn áp dư luận, khủng bố tinh thần nhương đảng viên còn thoát ở vòng ngoài, chứ chưa chắc đaơ là sự thực, cô Giang liền thu xếp mọi việc rồi tức tốc sang Hà Nội, t́m đến Lê Hươu Cảnh. Cảnh cho biết Nguyễn Thái Học ḅ bắt thực rồi! Ngoài anh Học ra, Sư Trạch, Phó Đức Chính, Nguyễn Như Liên cuơng đều ḅ bắt hết.
Nghe Lê Hươu Cảnh thuật lại xong, cô Giang nghẹn ngào gần như tắt thở. Cô rất lo cho tiền đồ của Đảng, vận mệnh của Tổ quốc. Tinh thần cô Giang trở nên khủng hoảng, boăng dưng khóc! boăng dưng cười! gần như một người mất trí, người điên! khiến các đồng chí của cô có mặt ở Hà Nội, phải t́m hết lời an ủi và t́m đủ mọi cách để bảo vệ tính mạng cho cô có thể ở yên Hà Nội, để gián tiếp thăm nom và giươ vương tinh thần cho Nguyễn Thái Học.
Một ý nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu óc cô Giang, là phải làm thế nào để cứu thoát được Nguyễn Thái Học và các đồng chí bây giờ? Cô Giang đem ý đ̣nh bàn với các đồng chí tổ chức một cuộc bạo động để cướp lại tự do cho Nguyễn Thái Học, cho các đồng chí và tất cả nhương đồng bào ḅ thực dân giam cầm trong ngục thất Hỏa lò. Trong ngục thất Hỏa lò, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo lấy tên là "Tù nhân báo" để cổ voơ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các trại giam. Nhương vật liệu viết báo đều do tài vận động của cô Giang qua tay Giám Thi. và lính lê dương có phận sự canh gác ngục thất Hỏa Lò. Cô Giang còn t́m đủ mọi cách để giử quà bánh và thông tin tức ở ngoài vào cho Nguyễn Thái Học. Thái Học cuơng luôn luôn gửi thư ra khuyến khích cô Giang nên tích cực hợp tác với các đồng chí ở ngoài để cải tổ phụng sự Đảng; hầu làm tròn sứ mạng giải phóng dân tộc ở tương lai.
Đến chiều ngày 16 tháng 6, một đồng chí tất tả chạy đến báo cho cô Giang biết:"Tối nay Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí seơ ḅ đưa lên Yên Bái để hành h́nh."
Tin đâu xét đánh ngang tai! Cô Giang lo lắng bồi hồi ngồi không yên mà đứng không yên! Đợi trời đổ tối, cô Giang giấu khẩu súng lục trong ḿnh và mấy trái bom trong tay nải, rồi lẳng lặng cùng mấy đồng chí t́m nhương con đường vắng tiến ra ga Hàng Cỏ; nhưng không thể làm thế nào lên được trên xe lửa; sau nhờ có mấy đồng chí đốt than và thợ máy ngầm đưa quần áo cải trang, Cô Giang và mấy đồng chí mới lên được toa xe lửa. Dưới vòm trời đen tối, sương sa mờ ṃt, gió lộng từng cơn, bánh xe lửa rít lên không gian im lặng, lòng Nguyễn Thi. Giang càng se thắt lại. Cùng đi một chuyến xe mà không được gặp nhau, dầu chỉ được nói một câu thôi. Bao nhiêu t́nh yêu thương! bao nhiêu noăi căm hờn! rồn rập cả vào tâm hồn nhà nươ cách mạng trẻ tuổi ấy. Hai giòng lệ trào xuống. Thôi thế là hết! chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nươa thôi. Nguyễn Thi. Giang mím niệng lắc đầu lảo đảo bước xuống ga Yên Bái.
Trống điểm tàn canh, gà gáy rồn báo sáng. Nguyễn Thi. Giang cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu đ̣a phương lặng leơ tiến đến pháp trường.
Trước sức mạnh của thực dân, hàng rào lính, cảnh binh và mật thám vây kín, không cho ai bén mảng đến gần. Nguyễn Thi. Giang đành xen vào đứng laăn trong đám người đến xem từ phía xa nh́n vào. Một lần nươa âm mưu phá pháp trường thất bại! Cô Giang cố nén noăi căm hờn uất hận, không hề lộ ra nét mặt để một ai hay!
Cô Giang đaơ chứng kiến suốt từ đầu đến cuối tấn bi ḳch chém giết daơ man tàn bạo của quân cướp nước. Còn sự đau đớn nào hơn moăi khi nh́n thấy lươơi dao phập xuống, đầu một đồng chí rơi, máu đào phun ra; rồi cuối cùng đến người mà ḿnh tôn thờ yêu quý. Nhương giòng máu trong cổ tuôn ra là nhương muơi dao đâm vào con tim người Liệt nươ.
Tấm thảm ḳch hạ màn vào đúng hồi 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930. Cô Giang cố gắng lấy lại b́nh tĩnh lặng leơ bước theo đám người lui về nhà trọ, nằm vật xuống giường nghỉ ngơi chốc lát, rồi mua giấy bút viết hai bức thư "Tuyệt Mệnh" trên ba trang giấy trắng khổ hẹp bằng bút ch́ xanh, đề ngày 17 tháng 6, nguyên văn như sau:




BỨC THỨ NHẤT
"Thưa thày, mẹ,
"Con chết v́ hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà, rửa nhục cho nước! Sau khi đaơ đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng.
"Giờ con t́m về choă quê cha đất tổ, mượm phát súng này mà kết lieău đời con".
Đứa con dâu bất hiếu kính lạy
Nguyễn Thi. Giang


BỨC THỨ HAI
"Anh là người yêu nước!
"Không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước!
"Anh giươ lấy linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
"Phải cḥu đựng nhục nhaơ mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ."
"Thân không giúp ích cho đời!
Thù không trả được cho người t́nh chung!
Daău rằng đương độ trẻ trung,
Quyết v́ dân chúng thể lòng hy sinh;
Con đường tiến bộ mênh mông,
Éo le hoàn cảnh buộc ḿnh biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào,
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Daău rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đaơ có ngày ghi tên;
Chết đi dạ nhương buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh chuân chuyên buộc ḿnh!
Đảng kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực lòng nhơơ bức sa cơ,
Chết sầu chết thảm có thừa sót sa.
Thế ru! Đời thế ru mà.
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!"
Nguyễn Thi. Giang
Viết xong hai bức tâm thư, cô Giang ra chợ mua mấy vuông vải trắng thắt ngang đầu, và ngay buổi chiều tối hôm ấy cô đáp xe lửa trở về Vĩnh Yên.
Tờ mờ sáng hôm sau, cô Giang trở về làng Thổ Tang, vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, báo tin Thái Học đaơ ḅ hành h́nh; rồi lậy tạ cụ ông và cụ bà Nguyễn Văn Hách, giối giăng lại mấy lời tâm sự, tháo chiếc đồng hồ đương đeo tay tặng cho Nguyễn Văn Lâm, mặt sau đồng hồ có khắc chươ "G", rồi lương thương như người mất trí tiến ra cái quán bán nước trà xanh dưới gốc cây đề, tục gọi là xóm Mới thuộc xaơ Đông Vệ giáp quốc lộ số 2, cách làng Thổ Tang ngót một cây số.
Ngồi uống bát nước trà xanh nghĩ đến t́nh nhà nợ nước, mà lòng đau sót chua cay, tinh thần cô rất là rối loạn; nhưng chí đaơ quyết đ̣nh, cô liền từ biệt bà chủ quán ra đứng dưới gốc cây đề, hướng mặt về phía làng Thổ Tang, rút khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học đaơ tặng cô ở đền Hùng Vương ra kết lieău đời ḿnh; hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930 tức ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ (22 tuổi).
Một vụ án mạng, hương lý xaơ Đông Vệ cấp báo với tri phủ Vĩnh Tường. Phủ cấp báo lên tỉnh, Công sứ Vĩnh Yên đánh điện về sở mật thám Hà Nội.
Thi thể cô Giang năm dưới gốc cây đề, bên cạnh có khẩu súng lục phơi sương nắng cho maơi đến hồi 16 giờ ngày hôm sau, bọn thực dân mới kéo nhau đến. Arnoux còm đem theo Thanh Giang và Nguyễn Văn Quý từ Hà Nội lên để nhận diện.
Viện cớ khám xét, Chính quyền thực dân bắt lột hết áo quần cô Giang; khi khám xét xong không cho phép mặc lại; rồi hạ lệnh cho Tri phủ Vĩnh Tường cùng hương lý sở tại mai táng, chứ không cho phép gia đ́nh Nguyễn Thái Học được làm phận sự ấy.
Công sứ Vĩnh Yên lại ra lệnh bắt đào huyệt sâu hơn 3 mét, trên đắp thành nấm tròn, bắt dân sở tại phải làm điếm canh nơi gần mộ; cho maơi đến cuối năm 1930 mới baơi lệnh.
Khách bộ hành qua đấy thường thấy phủ kín trên nấm mồ nhà nươ cách mạng Nguyễn Thi. Giang nhương bó hoa tươi thắm, và nhương nén nhang khói tỏa nghi ngút suốt 5 canh. Một chiến sĩ vô danh thời ấy đaơ ṿnh bài thơ:
"Sống nhục sao bằng sự thác vinh!
Nước non cho vẹn kiếp chung t́nh.
Lươơi dao xử tử chàng không ngại!
Tiếng súng quyên sinh thiếp cuơng đành!
Một tấm can tràng trời đất thảm,
Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại,
Trai đaơ trung th́ gái phải trinh!
GIA Đ̀NH NGUYỄN THÁI HỌC
Làng Thổ Tang, quê hương Nguyễn Thái Học quy vuông 3 cây số, đông giáo làng Sơn Tang, tây giáp làng Luơng Ngoại, nam giáp làng Phương Viên, Thượng Chưng, bắc giáp quốc lộ số 2. Choă reơ vào làng tục gọi Ngaơ ba gốc đề tức nơi Nguyễn Thi. Giang tự tử.
Nguyễn Thái Học có tất cả 4 anh em: Nguyễn Thi. Hiền, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Nỉ.
Nguyễn Văn Nho tính giống anh. Năm 1928 còn là học sinh lớp nhất trường Tiểu Học Pháp Việt Việt Tŕ. Ḅ thực dân ra lệnh đuổi khỏi trường, v́ là em của Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Nho bắt đầu theo Nguyễn Thái Học dấn thân vào con đường cách mạng. Ḅ Hội đồng Đề h́nh kết án xử tử v́ hai tội: giết Phạm Huy Du và làm kinh tài cho Đảng rất táo bạo.
Nguyễn Văn Lâm, là người em thứ tư, đương theo học lớp nhất trường Tiểu học Vĩnh Tường, cuơng ḅ thực dân ra lệnh đuổi. Lâm là người rất thông minh, t́nh t́nh khảng khái, trở về nhà mua sách báo tự học, thông thạo cả tiếng Pháp, Anh và Nhật; cuơng tự đọc sách nghiên cứu mà trở nên một nhiếp ảnh viên lành nghề.
Hồi tháng 6 năm 1946, Trần Huy Liệu lên dieăn thuyết tại trụ sở U.B.K.C.H.C phủ Vĩnh Tường. Nhân ḍp Trần Huy Liệu ghé vào thăm ṿ từ maău Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn Lâm chỉ vào mặt Trần Huy Liệu mà nói:
Gia đ́nh tao không thèm chơi với tên phản Đảng, phản Quốc, cút đi ngay!
Rồi t́m gạch liệng, Trần Huy Liệu phải tự rút lui. Đến cuối năm 1947, quân đội Liên hiệp Pháp hành quân tấn công thượng du Bắc Việt. Một toán lính nhẩy dù xuống đ̣a phương Tŕnh Diện cách làng Thổ Tang 9 cây số; một toán khác nhẩy dù xuống Đồi Me thuộc khu vực ga Chống (Bạch Hạc) cách làng Thổ Tang 3 cây số, cùng tiến vây chặt trụ sở U.B.K.C.H.C huyện Việt Minh đặt tại làng Thổ Tang.
Hay tin Pháp đổ bộ, dân làng Thổ Tang bỏ chạy hết, chỉ còn một số ít không chạy ḳp, trong số đó có Nguyễn Văn Lâm, ḅ Pháp quân bắt tập trung ở đ́nh làng. Pháp quân dụ Lâm suốt cả tiếng đồng hồ, nhưng Lâm nhất đ̣nh không theo, còn mắng lại:
- Gia đ́nh tao là gia đ&́nh cách mạng, hai anh tao đaơ chết bởi bàn tay chúng mày; tao không bao giờ lại đi theo quân cướp nước.
Lâm nhất đ̣nh không theo, Pháp nhất đ̣nh giết, Lâm trả lời:
- Nếu chúng mày nhất đ;̣nh giết tao, th́ đưa tao về nhà haơy giết.
Theo ý muốn của Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân đưa về nhà; đứng dưới cây dâu già, Lâm vạch áo phan ngực cho Pháp bắn.
Giết xong Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân quay vào đốt nhà cướp trâu bắt lợn, gà, rồi kéo nhau đi. Hôm ấy là ngày 19 tháng 11 năm 1947.
Nguyễn Văn Nỉ, người em út của Nguyễn Thái Học v́ còn nhỏ tuổi, nên maơi đến năm 1945 mới tham gia cách mạng. Được theo học nhiều lớp quân, chính của Đảng. Đến đầu năm 1948, Nguyễn Văn Nỉ theo các đồng chí rút sang Trung Hoa, 1949 Hồng quân lan tràn khắp lục đ̣a Trung Hoa; Nguyễn Văn Nỉ cùng một số đồng chí ḅ mắc kẹt không ḳp trở về Việt Nam.
Gia đ́nh Nguyễn Thái Học lại còn hy sinh cả người chú đồng chí là Nguyễn Quang Triểu, người ném bom Hà Nội đêm mồng 10 tháng 2 năm 1930; cùng lên máy chém với Nguyễn Văn Nho.
Gia đ́nh Nguyễn Thái Học hiện nay còn lại một ṿ từ maău đaơ ngoài 80 tuổi cùng một đứa cháu trai độc nhất là Nguyễn Thái Tuấn năm nay vào khoảng 20, là con của Nguyễn Văn Lâm, giòng máu cuối cùng của một gia đ́nh hy sinh cả cho Tổ quốc (1967).
Viết đến đây chúng tôi không thể không nói đến chuyện đaơ xẩy ra vào hồi năm 1953, để chứng tỏ tính t́nh cương trực của ṿ từ maău Nguyễn Thái Học. Nguyên vào hồi tháng 7 năm 1953, khi ấy Nguyễn Hươu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt lên kinh lý tỉnh Vĩnh Yên, qua Phủ lỵ Vĩnh Tường (làng Thổ Tang), phái Quận trưởng vào mời ṿ từ maău Nguyễn Thái Học ra Quận đường để tiếp kiến; nhưng ṿ từ maău ấy khước từ không ra. Trước khi ra về, Nguyễn Hươu Trí trao số tiền 2 ngàn đồng cho Quận trưởng nhờ đưa vào kính biếu; nhưng ṿ từ maău ấy cuơng nhất đ̣nh không nhận mặc dầu Quận trưởng Vĩnh Tường đaơ cầu khẩn hết lời.
Một lần khác, thấy ṿ từ maău Nguyễn Thái Học làm ruộng nhưng không có trâu cầy, Quận trưởng Vĩnh Tường thân giắt một con trâu đến kính biếu; nhưng ṿ từ maău ấy cuơng nhất đ̣nh không cḥu nhận.

-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*
nguồn :
http://www.vietnamconghoa.com/AnhHung/NguyenThaiHoc.html