Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2009

bài lưu trữ bên blog giỡn mặt " chính quyền f 16

CCRĐ TẠI MIỀN BẮC PHẦN 7 & 8

I. Giai Đoạn Tổ Đổi Công

Như đã trình bày, giai đoạn tổ đổi công nằm
trong kế hoạch 3 năm lần thứ nhất sau khi kết
thúc cuộc đấu tố "long trời lở đất". Mỗi
nông dân đều được chia một mảnh đất nhỏ
để canh tác, phù hợp với tinh thần tư sản
thiên nhiên của con ngườị Trong không khí mới
đó, một số đông quần chúng la bần nông đều
cảm thấy hân hoan. Việt cộng khơi dậy không khí
vui vẻ phấn khởi bằng cách phổ biến thơ văn
của các văn nô như hai câu thơ dưới đây:

Từ đây ta có đất cày
Con ơi bưng bát cơm đầy nhớ ai
(văn nô Trần Hữu Thung)

Không phải tất cả các bần nông đều hăng hái
cánh tác trên mảnh đất mớị Có một số bỏ ra
thành thị sinh sống, một số khác cần tiền
hoặc thiếu nông cụ sản xuất nên bán ruộng đi
để làm thuệ Do đó, những người có khả năng
mua lại ruộng và có khả năng canh tác trở nên
sung túc hơn. Đó là điều Việt cộng kỵ nhất,
vì khi có sự tích lũy tư sản trong tay một số
người là có sự suy yếu quyền lực của Việt
cô.ng. Nhưng tình trạng này không kéo dài vì Việt
cộng tung hàng loạt cán bộ về nông thôn tổ
chức nông hội và "Nhóm sản xuất". Một nhóm sản
xuất là một tập hợp từ 5 đến 10 hay 15 gia
đình giúp nhau sản xuất trong tất cả các công
tác nông nghiệp. Nhóm sản xuất là hình thức
giới thiệu cho "Tổ Đổi Công". Tổ đổi công
cũng tương tự như nhóm sản xuất nhưng số gia
đình tham gia lớn hơn, từ 25 đến 30 gia đình.
Một sự khác biệt quan trọng ở sự giúp đỡ
lẫn nhau dựa trên căn bản trao đổi ngày công.

Để hướng dẫn về tổ đổi công, cán bộ
Việt cộng giải thích cho nông dân như sau:

- Một anh nông dân A không có trâu để cày hoặc
bừa mảnh đất cho kịp gieo mạ, có thể mượn
trâu của anh nông dân B. Khi mạ đã lên, tới lúc
cần cấy lúa, anh nông dân B tuy có trâu nhưng
không sử dụng vào việc cấy lúa được, mà trong
gia đình lại neo ngườị Vậy anh nông dân B có
thể mượn người trong gia đình anh nông dân A
để cấy lúa, cũng trên căn bản ngày công. Một
ngày công của một người cũng tính bằng một
ngày công của trâu, và có thể trả bằng lúa, ví
dụ 3 kg lúa một ngày công cho người thì cũng trả
như vậy cho trâụ Với tổ đổi công, Đảng ủy
xã ấn định một lịch trình theo đó các gia đình
trong tổ luân phiên làm giúp nhau, mang cày bừa,
cuốc xẻng đi canh tác giúp, hoặc sửa nhà, lợp
mái cho các gia đình trong tổ.

Quan niệm của tổ đổi công đã tạo một ấn
tượng tốt trong đầu nông dân, vì nó đưa ra
những tiêu chuẩn đẹp và đề cao tinh thần liên
đới hỗ tương. Không những thế, nó còn có vẻ
hợp lý vì giúp nông dân giải quyết được tình
trạng bế tắc khi thiếu phương tiện hoặc nông
cụ cánh tác để cho kịp "thời vụ". Ví dụ nếu
không kịp có trân để cày bừa thì không kịp gieo
mạ lúc ruộng đang có nước. Nếu lấy sức
người để cày bừa sẽ quá lâu, và sau một
trận nắng lớn đất khô sẽ không cấy lúa
được nữa, và ngôn ngữ Việt cộng gọi là
"không kịp thời vụ".

Ngoài ra, trên phương diện kinh tế, lối làm ăn
trong tổ đổi công có các đặc điểm (trên
nguyên tắc) như sau:

- Quyền tư hữu ruộng đất vẫn còn được duy
trì như trước.

- Quyền làm chủ hoa màu vẫn thuộc về người
chủ đất nông dân.

- Công của ai người ấy hưởng.

Duy có ba ý niệm mà Việt cộng muốn mớm cho
nông dân qua hình thức tổ đổi công:

Thứ nhất: Nếu có thể sử dụng trâu bò, nông
cụ của nhau, tại sao không tập trung vào một nơi
để sử dụng chung (mở đầu cho giai đoạn hợp
tác hóa nông nghiệp).

Thứ hai: Trong tổ đổi công, mọi người cùng
chung vai làm việc tập trung nhân lực, khiến cho
dân quen dần với lối làm ăn tập thể.

Thứ ba: Trong tổ đổi công có tổ trưởng, tổ
phó, tổ nông hội, tổ thanh niên, tổ chức như
công đoàn sau này, có sinh hoạt học tập đôn
đốc chủ trương của Đảng, của nhà nước, đặc
biệt là chính sách thuế nông nghiệp. Với guồng
máy tổ chức này, một mặt Việt cộng gài cán
bộ vào làm tai mắt theo dõi hành vi và tư tưởng
chính trị của mỗi nông dân, một mặt đôn đốc
chuẩn bị dân sản xuất dưới chiêu bài nhân dân
làm chủ và Đảng lãnh đạo (chưa tới giai đoạn
Nhà Nước Quản Lý). Trong mỗi buổi sinh hoạt tổ
hoặc sinh hoạt rộng lớn hơn, thành phần Đảng
viên thường len lỏi vào chiếm chừng một phần
ba, thành phần cảm tình viên cũng vào khoảng một
phần ba, và đã được Đảng vận động trước
để ủng hộ những đề nghị có lợi cho chính
sách Đảng. Như vậy bất cứ những nghị quyết
nào quan trọng đều được hai phần ba biểu
quyết, lợi cho Đảng mà bề ngoài Đảng vẫn khoe
khoang là dân chủ vì dân quyết định mọi việc.

Trong giai đoạn Tổ Đổi Công, thuế nông nghiệp
bắt đầu tăng caọ Ngay ở những vùng đất nghèo
nàn cằn cỗi như phía Nam Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, thuế nông nghiệp cũng từ 20% đến 25%,
nghĩa là cứ 1000 kg thóc thì phải nộp tới 250 kg,
và số thóc đó phải phơi thật khô và quạt thật
sa.ch. Ở những vùng đất tốt như Thái Bình Nam
Định, thuế nông nghiệp còn cao hơn nữa, và nói
chung, thuế nông nghiệp có tiêu chuẩn cố định,
bất kể thiên tai, hạn hán hoặc lụt lộị

Việc tiến hành kế hoạch Tổ Đổi Công không
đồng loạt và đều khắp trên toàn cõi Bắc
Việt, vì Việt cộng rất dè dặt và tiến hành
làm nhiều đợt tại nhiều thí điểm khác nhaụ
Tại khu Tự Trị Việt Bắc (xem bản đồ) gồm các
tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng,
Bắc Kạn, kế hoạch tổ đổi công mãi tới năm
1964 mới bắt đầụ Như vậy, cho tới tháng
12-1958 kế hoạch tổ đổi công vẫn chưa thực
hiện xong hết trên toàn miền Bắc, chỉ mới có
65% gia đình nông dân tham gia tổ đổi công. Tuy
nhiên, tại những nơi mà tổ đổi công tiến
triển điều hòa thì chế độ hợp tác xã cấp
thấp bắt đầu được thí nghiệm.

Trong giai đoạn tổ đổi công, đời sống nông
thôn Bắc Việt tương đối còn tạm dễ thở.
Mặc dầu có một số cá nhân đi làm thuê, nhưng
những gia đình đông người nhờ nhiều nhân công
đã sản xuất nhiều, trở nên sung túc, mua thêm
trâu cày, mua thêm nông cu.. Những gia đình ít
người, tuy sản xuất ít hơn, nhưng vì ít miệng
ăn nên cũng dành dụm được ít tư sản. Đó là
hiện tượng "tích lũy tư bản" mà cộng sản không
chấp nhận. Thực ra, giai đoạn công hữu hóa đã
được hoạch định tiếp theo để giải quyết vấn
đề tích lũy tư bản nàỵ Một ích lợi hiển
nhiên trong giai đoạn tổ đổi công là Việt cộng
đã có cơ hội ước lượng chính xác năng suất
trung bình của nông dân, để đo lường trước xem
tối thiểu có thể bóc lột được của nông dân
là bao nhiêu khi bước lên giai đoạn hợp tác xã
cấp thấp (danh từ Việt cộng dùng để chỉ thủ
đoạn bóc lột này là: "Giải Phóng Sức Sản
Xuất").

oOo

Tổ Đổi Công
Thời điểm
thực hiện Số Tổ
Đổi Công Tỷ số gia đình
tham gia Tài Liệu
10-1957 72000 24,3% Báo Nhân Dân 3-10-57
11-1957 8569 29% Báo Nhân Dân 28-11-57
01-1958 102000
07-1958 137600 31,6% VNI 15-8-58 (*)
10-1958 203582 51,1% VNI 23-1-59 (*)
12-1958 300000 (**) 65% Đài Hà Nội 29-12-58

Ghi chú:

(*) VNI: Tạp chí Viet Nam Information xuất bản ở
Rangoon

(**) 300000 tổ đổi công gồm khoảng 2 đến 3
triệu gia đình nông dân

IỊ Giai Đoạn Hợp Tác Xã Cấp Thấp

Trong khi chế độ Tổ Đổi Công chưa hoàn tất
đều khắp trên toàn cõi Bắc Việt, thì vào năm
1958, nghị quyết 14 của Trung Ương Đảng Lao Động
Bắc Việt đề ra nhiệm vụ và mục đích của Kế
Hoạch 3 Năm lần thứ hai là để "Xây Dựng Nền
Kinh Tế Dân Chủ Nhân Dân", khác với nền kinh tế
trong giai đoạn Tổ Đổi Công mà Việt cộng gọi
là Nền Kinh Tế Dân Tộc Tư Sản.

Cán bộ Việt cộng tổ chức học tập khắp nơi
về nhu cầu phải vượt qua giai đoạn Kinh Tế Dân
Tộc: "Cảnh Làm Thuê Cho Chủ" vẫn còn, từ đó
đưa đến tình trạng bất bình đẳng, và kềm
chế sức sản xuất, vậy phải tiến lên giai đoạn
kinh tế dân chủ nhân dân để "giải phóng sức
sản xuất và thành lập quan hệ kinh tế bình
đẳng giữa con ngườị

Hệ thống sản xuất mới trong ngành nông nghiệp
được gọi là Hợp Tác Xã Cấp Thấp. Cùng lúc
với Hợp Tác Xã Cấp Thấp ở nông thôn, có
cuộc cải tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư Doanh
ở thành thị mà ta sẽ nghiên cứu sau nàỵ Mặc
dầu từ cuối năm 1957 trong khi các tổ đổi công
chưa hoàn tất, một số Hợp Tác Xã Cấp Thấp
đã được phát động làm thí điểm, nhưng chính
thức vào năm 1958 phong trào Hợp Tác Xã Cấp
Thấp mới ra đời, và được thực hiện sớm
muộn tùy nơị Nhất là tại Khu Tự Trị Thái Mèo
và ở Việt Bắc như Tuyên Quang, Thái Nguyên
v.v..., phong trào hợp tác xã được thực hiện
rất muộn vì Đảng còn phải ve vuốt các nhóm
thiểu số.

Khi chế độ Hợp Tác Xã mới ra đời, Việt
cộng chưa bắt buộc toàn thể dân chúng phải gia
nhập, và phần lớn chỉ có đảng viên, giai cấp
bần nông gia nhập trước và được hưởng
những ưu quyền như con em được đi học, xã viên
được cấp phân bón, nông cụ v...v....

Những khẩu hiệu trong giai đoạn này là:

Đảng viên đi trước
Làng nước đi sau,
Đoàn viên đầu tàu
Vào hợp tác xã.

Việt cộng đã phát động phong trào hợp tác xã
một cách rầm rộ như một đại hội, với bích
chương, biểu ngữ, chiêng trống, chương trình
phát thanh, báo chí, phim ảnh cổ động cho quan
niệm hợp tác xã làm ăn,

"Buôn có bạn, bán có phường
Làm ăn có xóm có làng mới vui"

hoặc:

"Làm ăn riêng lẻ như nghé không đàn
Có tổ có đoàn, mạnh lắm ai ơi"

Để diễn tả sức mạnh của lối làm ăn hợp tác,
các văn nô nghĩ ra những lời thơ nghe rất phấn
khởi và khoái lỗ tai:

"Nghiêng đồng đổ nước ra sông"

hay là:

"Vắt đất ra nước thay trời làm mưa"

Câu trên ngợi ca cảnh tát nước từ những cánh
đồng bị úng nước để cứu cho lúa khỏi chết.
Câu dưới tả cảnh tát nước từ sông vào cánh
đồng khô cạn để cứu hạn hán. Ngoài ra, hai câu
trên còn đề cao khả năng "cải tạo thiên nhiên"
của lối làm ăn tập thể.

oOo

1. Nguyên Tắc Căn Bản của Hợp Tác Xã Cấp Thấp

Hợp tác xã cấp thấp có một số khác biệt căn
bản so với Tổ Đổi Công.

Thứ nhất: Trong Hợp tác xã cấp thấp, những xã
viên không còn làm chủ đất đai và dụng cụ làm
ruộng của mình (Việt cộng gọi là "phá vỡ
quyền tư hữu tư liệu sản xuất của tư nhân"),
những nông dân, sau khi được chia ruộng đất qua
cuộc cải cách, được cán bộ tuyên truyền gia
nhập hợp tác xã bằng cách nộp hết ruộng
đất cho hợp tác xã, nông cụ được tập trung
vào một nơi gọi là kho vật liệụ

Thứ hai: Ban quản trị hợp tác xã gồm những
thành phần đảng viên ưu tú mà thôị Ban quản trị
này lãnh đạo việc "Phân phối sức kéo" (tức là
người và trâu bò), phân phối nông cụ thành các
đội hoặc tổ sản xuất. Một xã viên sẽ không
còn làm việc trên mảnh đất cũ của mình, mà sẽ
làm trên mảnh ruộng của hợp tác xã.

Thứ ba: người nông dân sau khi vào hợp tác xã
không còn làm chủ hoa màu do mình sản xuất, không
còn gánh thóc về nhà sau mỗi mùa gặt, mà gánh
thóc vào kho lẫm của hợp tác xã. Thay vì hoa màu
thu được, người nông dân xã viên được trả
lương như một công nhân viên Nhà Nước. Tiêu
chuẩn trả lương ra sao là điều ta sẽ nói tới
saụ

Mặc dầu những nguyên tắc trên đi ngược lại
tinh thần tư sản cố hữu của người nông dân,
nhưng cán bộ Đảng đã vẽ ra trước mắt người
dân quê Việt Nam một hình ảnh huy hoàng của
tương lai: Nhờ hợp tác làm ăn, năng suất sẽ cao
hơn trước, và người hưởng lợi trực tiếp là
xã viên. Những khẩu hiệu như: "Hợp Tác, cánh
đồng năm bảy tấn" trở thành những chỉ tiêu
về gia tăng năng suất trong những kế hoạch 3 năm
và 5 năm. Ngoài ra cán bộ Đảng còn hứa hẹn
những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao đời
sống xã viên như máy cày, máy bơm nước, điện
khí hóa nông thôn....

Nông dân miền Bắc nói chung vốn cầu an và có
tinh thần làm ăn theo xóm theo phường, nên ban
đầu cũng có nhiều người nghe lời tuyên truyền
của Đảng gia nhập hợp tác xã. Có một số ít
không gia nhập hợp tác xã vì lúc này chưa có
sự bó buộc. Theo nông dân Lê văn Hùng, thì tại
làng Hàm Cách của anh, thuộc huyện Thành Hà, tỉnh
Hải Dương, ban đầu chỉ có 20% nông dân tham gia
hợp tác xã cấp thấp. Những nông dân không gia
nhập hợp tác xã nghĩ rằng họ có thể làm ăn
riêng lẻ được, và Việt cộng cũng tạm để cho
họ yên trong giai đoạn đầụ

Đối với những nông dân gia nhập hợp tác xã,
chỉ trong vòng một thời gian ngắn đã vỡ mộng
vì những thu hoạch mà họ mang về cho gia đình
không tương xứng với một phần nhỏ của mồ hôi
nước mắt mà họ nhỏ xuống gốc ra.. Họ đã phải
đóng góp rất nhiều cho hợp tác xã, nhưng đến
cuối mùa họ tổng kết lại thì thấy phần lớn
những đóng góp của họ rơi vào một cái thùng
không đáỵ Sở dĩ như vậy là vì sự cách biệt
quá xa giữa một bên là chế độ đóng góp (gồm
có lao động, thuế, và các quỹ xã hội...), và
một bên là chế độ hưởng thụ theo công điểm
(ghi công làm việc của mỗi người).

Chế độ lao động ấn định mức làm việc của
mỗi ngườị Chế độ thuế ấn định bổn phận
tài chánh của mỗi công dân. Còn các quỹ đóng
góp thì trên lý thuyết tượng trưng cho sự để
dành hoặc sự đầu tư của nông dân giống như
quỹ an sinh xã hội hoặc những quỹ bảo hiểm của
các nước tự dọ Chế độ công điểm ghi chép
số giờ lao động mỗi người đóng góp mỗi
ngày để dựa vào đó trả tiền công cho mỗi
ngườị

Để dễ dàng nhìn thấy sự lợi hại của hợp
tác xã, ta hãy đặt lên bàn cân để so sánh sự
đóng góp công sức tài vật của nông dân, với
những số thù lao mà họ được hưởng.

oOo

2. Chế^' Độ Đóng Góp Của Xã Viên

Một đặc điểm quan trọng và nổi bật của chế
độ hợp tác xã là "hạch toán kinh tế", danh từ
Việt cộng chỉ mọi tính toán thu chi lời lỗ, ở
đây chỉ về sự đóng góp của xã viên cũng như
sự hưởng thụ của xã viên. Đây là đặc điểm
quan trọng vào bậc nhất vì nó liên quan mật
thiết đến sự tình trạng đói của xã viên, vì
thế cho nên hầu như bất cứ hồi chánh viên
nông dân nào khi được phỏng vấn cũng biết tính
toán một cách rành mạch từng đồng, từng xu
những đóng góp và hưởng thụ của xã viên. Vì
những con số đó tượng trưng cho sự no đói của
xã viên nên sẽ được trình bày khá tỉ mỉ trong
bài nghiên cứu nàỵ

ạ Đóng Góp Lao Động

Trong một hợp tác xã nông nghiệp, ban quản trị
gồm những người được Đảng lựa chọn từ
trước và được vận động ngầm từ trước,
mặc dầu cũng được bầu cho đủ hình thức dân
chủ.

Sơ đồ này cho thấy cái khung của hợp tác xã
gồm có những xã viên nằm trong các đội sản
xuất và tổ sản xuất tượng trưng cho bộ máy
sản xuất. Bộ máy này được điều khiển bởi
các đội trưởng sản xuất theo nguyên tắc "làm
việc tại đồng, phân công tại sở" có nghĩa là
các đội trưởng trở lên ban quản trị hợp tác
xã chỉ việc ngồi rung đùi tại sở để phân
công tác, và các xã viên mới là những người
phải đổ sức lao động ra tại đồng. Các tổ
trưởng là những phần tử bần nông trung kiên
vừa làm việc vừa đôn đốc, và ban kiểm soát
theo dõi ở trên, đánh giá sự làm việc của mỗi
người theo từng loại:

- Loại A: loại khỏe mạnh, làm nhanh, tích cực đi
làm sớm.

- Loại B: là loại làm việc trung bình.

- Loại C: là loại làm việc kém, hay đi trễ, không
tích cực.

Bình Công Chấm Điểm

Sau mỗi ngày làm việc, mỗi người được đánh
giá lao động bằng cách Bình Công Chấm Điểm
tức là dựa vào một người giỏi nhất để làm
tiêu chuẩn cho điểm những người khác, và gọi
tiêu chuẩn đó là "mốc khoán". Ví dụ: Trên một
mảnh ruộng do một số người làm việc gồm đủ
cả 3 loại A, B và C.

Khi chấm điểm mỗi người, loại A được 10
điểm nếu làm đủ 12 giờ một ngày, loại B
được 8 điểm và loại C chỉ được 6 điểm. Và
số 10 điểm trong một ngày làm việc của một xã
viên loại A được dùng làm chuẩn gọi là một
công. Một người loại A làm việc 3 ngày được
số điểm tương đương với 3 công lao động,
trong khi một người loại C làm việc 3 ngày chỉ
được ghi có 18 điểm, tức là chưa được 2
công lao đô.ng. Muốn đạt được 3 công, xã viên
loại C chỉ có hai cách, một là làm thêm ngày, hai
là tăng thêm giờ làm việc mỗi ngàỵ Nhưng cách
thứ nhất không thể thực hiện được vì không
ai có ngày nghỉ để làm bù nên xã viên loại C
chỉ còn một sự lựa chọn là tăng số giờ làm
mỗi ngàỵ Do đó mới có câu "Làm ngày không đủ
tranh thủ làm đêm".

Tại Sao Phải Làm Cho Đủ Công?

Ban quản trị giao khoán cho từng gia đình phải làm
đủ một số công điểm cho mỗi vụ mùa, và danh
từ Việt cộng gọi là "mức giao điểm", tùy theo
số nhân khẩu trong mỗi gia đình.

Nếu gia đình đông người thì mức giao điểm
caọ Ví dụ một gia đình có hai lao động chính và
một lao động phụ thì mức giao điểm là 5000
điểm, tức là trong một vụ 6 tháng phải làm đủ
5000 điểm, tức là 500 công (10 điểm là một
ngày công) mỗi lao động chính phải làm khoảng 170
công và lao động phụ 140 công.

Nghĩa là trung bình mỗi người trong gia đình đó
phải làm 170 ngày trong 6 tháng (180 ngày) và mỗi
ngày 12 giờ mới hy vọng đạt được mức điểm
giao để được tính khẩu phần theo loại Ạ

Nói như vậy, có phải cứ sáu tháng thì có 10
ngày nghi??

Không, con số 170 ngày công là con số lao động
được trả lương gọi là "lao động sản xuất"
như cày, bừa, gặt, háị Mỗi năm, nông dân còn
phải làm lao động không công tức là lao động
"Nghĩa Vụ". Việt cộng đặt ra hai loại lao động
nghĩa vụ chính:

- Loại A: Lao Động Thủy Lợi - đó là lao động
bắt buộc như đắp bờ đập, tát nước, khai
nương v...v..., mỗi năm từ 15 đến 30 công.

- Loại B: Lao Động Xã Hội - như đắp đường,
xây trụ sở, xây cầu, đi gác ban đêm.

Hai loại nghĩa vụ trên không tính công để lãnh
lương, trái lại chỉ có phạt nếu thiếu nghĩa vu..
Ví dụ một người được ban quản trị hợp tác
xã phân công đi đắp đường mà vì lý do gì đó
không đi thì bị phạt từ 1 cho tới 3 công (3 ngày
công).

Như vậy, nếu gồm cả lao động nghĩa vụ với lao
động sản xuất, một xã viên không có đủ số
ngày trong một năm để làm cho đủ công điểm.
Vì thế hầu như ai cũng phải làm thêm bằng cách
ra đồng sớm hơn và ở lại tới khuya để làm
thêm. Nhưng không phải ngày nào cũng có thể ở
lại khuya để làm thêm, vì còn phải đi họp để
học tập về chính sách nông nghiệp, học tập
chính trị và đủ thứ học tập khác.

Điều đó có nghĩa là dù có muốn làm cho đủ
công điểm, cũng không có đủ giờ để làm theo
ý muốn. Và thiếu công điểm là thiếu ăn.

Dù có làm đủ công điểm cũng chưa có nghĩa là
đủ ăn, vì đến lúc thu hoạch vào cuối mùa, hợp
tác xã cộng điểm của toàn gia đình và khấu
trừ ra 25% gọi là điểm Kiến Thiết Xã Hội Chủ
Nghĩa, còn lại bao nhiêu mới tính ra giá bằng lúa
tùy theo từng vu.. Số lúa tương ứng với mỗi
công điểm cũng không nhất định, vì gặp năm
mất mùa, số lúa cũng giảm theo, mặc dù công
điểm không đổị

Công dân Lê văn Hùng giải thích rất rõ như sau:

"Tiền chia cho mỗi điểm tùy theo số thu tổng
kết của Hợp Tác Xã. Hợp tác xã hàng tháng
cộng chung số điểm của toàn thể dân làng. Đem
số tiền tổng thu chia cho số điểm chung của cả
dân làng, ta có tiền cho mỗi điểm. Thí dụ hợp
tác xã tổng thu được 10000 đồng và số điểm
chung của hợp tác xã là 100000 điểm, như vậy
mỗi điểm trị giá 10 xụ Mặt khác nếu số tổng
thu chỉ có 8000 đồng, thì giá trị mỗi điểm chỉ
còn có 8 xụ Tóm lại giá trị mỗi điểm tùy số
tổng thu, cho nên, nếu nông dân muốn được số
tổng thu cao hơn thì phải gia tăng sản xuất. Hạn
hán hay mất mùa là một thảm họa cho nông dân".

Hình thức bình công chấm điểm bắt buộc mọi
người, đàn ông cũng như đàn bà, ông già cũng
như bà lão phải làm việc như máy suốt ngày:

"Mệt nhọc đến độ tình vợ chồng cũng bị ảnh
hưởng, không còn sức nào mà yêu thương ân ái
với nhau được nữa". (Lời anh Lê văn Hùng)

Tuy số giờ làm việc chính thức là 12 giờ một
ngày, nhưng vì ai cũng sợ đói, và nếu có một
hai đứa con thì phải làm việc suốt từ 4 giờ
sáng tới 10 giờ đêm (18/24 giờ một ngày) mới
đủ ăn.

b. Đóng Góp Thuế Nông Nghiệp Và Thuế Đảm Phu..

Khi nhà nước đã nắm toàn bộ sinh hoạt, lợi
tức của dân, thì nông dân có còn phải đóng
thuế nữa không?

Câu hỏi này được anh Lê văn Hùng trả lời như
sau:

"Người dân quê đâu còn gì là của riêng nữa mà
đóng thuế. Nhưng trên thực tế họ vẫn gián
tiếp phải đóng thuế vì hợp tác xã nhân danh
tập thể đóng thuế cho nhà nước: Thuế Nông
Nghiệp, Thuế đảm phụ nghĩa vụ, Thuế đảm phụ
nghĩa thương.

"Khi hợp tác xã đóng thuế cho nhà nước dĩ
nhiên số thóc còn lại để chia cho xã viên phải
ít đị Thí dụ cụ thể cho dễ hiểu: Tại làng Hàm
Cách của tôi chẳng hạn, mỗi vụ lúa phải đóng 15
tấn thóc thuế nông nghiệp, 5 tấn thóc thuế
đảm phụ nghĩa vụ và 3 tấn thóc thuế đảm phụ
nghĩa thương. Tổng số thu hoạch mỗi mùa là 100
tấn thóc, đóng thuế xong chỉ còn 77 tấn. Thuế
nông nghiệp ấn định là 15% sản lượng, thuế
đảm phụ nghĩa vụ tùy theo tình hình chung, nhưng
không quá 5% sản lượng".

Thuế đảm phụ nghĩa vụ được cán bộ Đảng giải
thích như là một thứ thuế đóng thế chân cho
việc đi lính làm nghĩa vụ quân sư.. Còn thuế
đảm phụ nghĩa thương là để giúp cho các thương
bệnh binh bị đau ốm hoặc bị thương vì đi làm
nghĩa vụ quân sư..

Thuế nông nghiệp là một thứ thuế nặng nề
nhất đối với nông dân Bắc Việt, và cán bộ
Đảng trong hợp tác xã thi hành rất khắt khe, ví
dụ một cán bộ làm thổ sản ở Thanh Thủy, tỉnh
Thanh Hóa tên là Hoàng văn Kính, là cán bộ phụ
trách của tỉnh, có người cha thiếu thuế hai năm
liền, tức là phạm vào tội "dây dưa thuế nông
nghiệp". Anh Hoàng văn Kính đã bị Đảng thi hành
biện pháp kỷ luật bằng cách khai trừ khỏi
Đảng. Sau đó, anh Kính đã "thắc mắc" với chính
quyền địa phương nên bị đi cải tạọ

Chẳng những thuế nông nghiệp là một sự bóc
lột khắt khe, nhưng nông dân oán hận nhất là
nhà nước bắt trả các thứ thuế bằng thóc,
chứ không phải bằng tiền. Nông dân Nguyễn văn
Hùng đã giải thích tại sao trả thuế bằng thóc
lại thiệt hại cho dân hơn là trả bằng tiền:

"Nhà nước mỗi mùa lấy 23 tấn thóc (gồm thuế
nông nghiệp, thuế đảm phụ nghĩa vụ và thuế
đảm phụ nghĩa thương, áp dụng cho làng Hàm Cách
mỗi mùa sản xuất 100 tấn phải đóng thuế 23
tấn), như vậy nghĩa là dân mất đi 23 tấn thóc
mỗi mùạ Tại miền Bắc mỗi hột thóc quý như
hột vàng. Nếu nhà nước lấy tiền thay thóc thì
hợp tác xã thay mặt tập thể dân chúng chỉ phải
đóng 6200 đồng (giá chính thức 270 đồng một
tấn thóc). Như vậy đổ đồng mỗi người dân
(làng tôi có 100 dân) đóng 62 đồng. Với 62
đồng đó, trên thị trường chợ đen chỉ tương
đương với 70 kg thóc hay 50 kg gạo mỗi mùạ Trong
khi đó nếu dân được giữ lại 23 tấn thóc
(nếu đóng thuế bằng tiền) thì chia đều mỗi
người được 230 kg thóc (tức là khoảng 164 kg
gạo, và nếu chia cho 6 tháng thì trung bình mỗi
ngày một nông dân được thêm gần 1 kg gạo tức
là 4 bát cơm đầy). Giá trị một hột thóc ở
chỗ đó".

Chú thích: giá thóc chính thức là 270 đồng một
tấn, trong khi giá chợ đen là khoảng 800 đồng
tới 900 đồng một tấn vào lúc đó.

Sau khi đã được đóng góp sức lao động, đóng
các thứ thuế "nghĩa vụ cao cả" nghe khoái lỗ tai,
nông dân còn được Đảng thương cho đóng nhiều
loại quỹ khác nữạ


Cải cách ruộng đất Miền Bắc (6)

c. Đóng Góp Cho Các Thứ Quỹ Của Hợp Tác Xã.

Hợp tác xã cũng "thay mặt xã viên" để đóng
vào các loại quỹ dưới đây:

Quỹ Thủy Lợi: "Ban quản trị nói là để mua dụng
cụ máy móc làm công tác thủy lợi như dẫn nước
vào ruộng khô, hút nước ra khỏi ruộng ngập
nước, hoặc hệ thống đập nước v.v... nhân
dân đóng khá nhiều cho quỹ này, nhưng trên thực
tế, quỹ thủy lợi thực sự đi đâu mất tiêu và
không ai thấy có bằng chứng cụ thể là quỹ thủy
lợi được dùng vào mục tiêu thủy lợị Quỹ thủy
lợi đã như nước ngấm vào sa mạc hết trơn,
máy bơm nước, máy hút nước không thấy đâu,
chỉ thấy nông dân tiếp tục dùng gầu để tát
nước thấy ông bà nội".

Quỹ Tích Lũy: "Cán bộ Việt cộng tuyên truyền
rằng quỹ này được dùng để giúp đỡ xã viên
gặp hoàn cảnh khó khăn. Trên thực tế một phần
nhỏ được dùng để mua dụng cụ làm việc, còn
phần lớn để tổ chức những buổi liên hoan
của ban quản trị hợp tác xã, tức là các ông
trời con ở nông thôn".

Quỹ Xã Hội: "Được dùng để xây trường học,
xây nhà thương. Tất cả quỹ này được nộp cho
xã và từ xã đưa về huyện, hoàn toàn do nhà
nước nắm giữ, nhân dân làm chủ nó, nhưng không
hề biết nó được chi tiêu ra sao".

Quỹ Bảo Hiểm: Cán bộ Việt cộng tuyên truyền
cổ động như sau về quỹ bảo hiểm:

"Lao động phải an toàn. An toàn để lao động"

Việt cộng đã lên tới đỉnh cao trong việc sản
xuất những khẩu hiệu nghe qua thấy mê mẩn tâm
thần, nhưng không có liên hệ gì tới thực tế
của vấn đề bảo hiểm cả. Các xã viên sau khi
"nhờ" hợp tác xã "đóng tiền dùm" vào các quỹ
bảo hiểm, thì chẳng biết những quỹ này đi
đâu, mà cũng chẳng bao giờ được hưởng những
quyền lợi do quỹ này mang lạị Tuy biết rằng
mất của, đa số nông dân vẫn đành để cho "của
đi thay người" mà không dám thắc mắc, sợ rằng
có thể được Việt cộng cho đi xa để tìm ra
sự thật như trường hợp anh Hoàng văn Kính đã
nói ở trên.

Tuy nhiên họ cũng phản ứng lại bằng cách khác
như ta sẽ thấy sau nàỵ Trong hiện tại nông dân
còn nhẫn nhịn thì Việt cộng còn tiếp tục nhẩn
nha làm tớị Việt cộng coi nông dân miền Bắc
như một thứ trái cây có nhiều lớp vỏ ngọt
ngào tha hồ bóc lột từ lớp vỏ này tới lớp
vỏ khác để mà ăn. Từ Hồ Chí Minh cho đến tên
cán bộ hạng bét của Việt cộng đều thi đua
phát huy sáng kiến để bóc lột nông dân.

Sau khi bắt dân góp sức lao động, đóng các thứ
thuế, góp các thứ quỹ, hợp tác xã còn "phát huy
sáng kiến" ra một thứ "nhiệm vụ tình nguyện"
nuôi gà, nuôi heo cho nhà nước.

Anh Lê văn Hùng kể lại như sau:

"Về chăn nuôi, mỗi gia đình bắt buộc phải nuôi
một số lợn tương đương với 100 kg thịt mỗi
năm để bán cho hợp tác xã. Việc nuôi lợn là
việc cưỡng bách và người nuôi không được
bán ra ngoài hoặc giết ăn thịt. Mỗi gia đình
còn phải nuôi hai con gà cho hợp tác xã. Không ai
muốn nuôi lợn vì bị lỗ vốn, nhưng vẫn bị
bắt buộc phải nuôi".

Vấn đề nuôi heo lỗ vốn đã thành quy luật của
xã hội chủ nghĩa Việt cô.ng. Anh Lê văn Hùng
giải thích lý do:

"Hợp tác xã không cung cấp lợn giống, mà cũng
không bán lợn con cho dân. Vì thế, người nuôi
lợn phải mua lợn giống ở ngoài với giá tự dọ
Những người nuôi lợn giống được bán lợn con
tự dọ Một con lợn con nặng 10 kg giá 30 đồng
(tiền miền Bắc). Lợn ở ngoài Bắc thì nhỏ và
chậm lớn. Phải nuôi tới tám chín tháng mới
lớn tới 50 kg. Lợn được nuôi bằng cám, mà
cám thì rất đắt. Mỗi con lợn ăn hết 4 hào
tiền cám, nghĩa là 12 đồng một tháng, hay là 96
đồng trong 8 tháng. Hai con lợn mất 192 đồng
tiền cám, và giá mua 2 con hết 60 đồng, tổng
cộng là 252 đồng tiền vốn. Hai con lợn nặng
100 kg bán cho hợp tác xã 1 đồng mỗi kg thịt theo
giá chính thức, tức là lỗ hết 152 đồng không
kể công lao khó nhọc trong tám tháng. Do đó không
ai muốn nuôi lợn nếu không bị cưỡng bách. 152
đồng là tiền công 4 tháng lao động cực nhọc
ở ngoài đồng. Nhưng nếu không chịu nuôi lợn
thì sẽ không được ăn thịt và bị kết tội là
phản động chống lại xã hội chủ nghĩa, chỉ
biết nghĩ đến quyền lợi ích kỷ làm hại quyền
lợi chung. Ngoài ra còn bị phạt 30% số thóc
được mua của hợp tác xã ...".

Lý do căn bản khiến việc nuôi lợn lỗ vốn là
vì phải mua lợn con và thức ăn ở thị trường
tự do (gần như chợ đen) và cuối cùng bán thịt
heo giá chính thức cho nhà nước. Khi tất cả nông
dân bị lỗ, thì chỉ có một bọn hưởng lời trên
sức lao động của nông dân. Ai cũng đoán đước
bọn đó là bọn nàọ Khi anh Lê văn Hùng nói đến
việc "bị phạt 30% số thóc được mua của hợp
tác xã" thì các độc giả chưa nếm mùi Việt
cộng có thể không hiểu điều đó nghĩa là cái
gì, và có thể sẽ có người bảo "cần chi phải
mua thóc của hợp tác xã?".

Thực ra đây là căn bản của chế độ hưởng
thụ, tức là vấn đề no đói của xã viên mà ta
sắp phân tích dưới đâỵ

oOo

3. Chê Độ Hưởng Thụ Của Hợp Tác Xã Cấp Thấp

Chế độ hưởng thụ của hợp tác xã cấp thấp
thay đổi theo từng mùa hay từng vụ tùy theo sự
thu hoa.ch. Vì thế, cứ tới mùa gặt hái là tất
cả ba ban kiểm soát, kế hoạch và kế toán châu
đầu lại họp với ban quản trị hợp tác xã để
ấn định mức hưởng thụ của xã viên, và danh
từ Việt cộng gọi việc này là "làm phương án
kết toán ăn chia".

ạ Định Giá Trị Của Một Công

Phương án kết toán ăn chia là đường lối đại
cương mỗi vụ mùạ Sau khi phương án làm xong, ban
quản trị quyết định mức ăn chia tức là mức
độ hưởng thụ dựa trên giá trị của mỗi công
theo cách thức mà anh Lê văn Hùng đã mô tả (một
công có thể từ 8 xu tới 10 xu). Cán bộ Việt
cộng đi kiểm tra tất cả các mảnh ruộng bằng
cách đo năng suất mỗi mảnh, rồi từ đó tính ra
mức tổng thụ

Xã viên không được trả công dựa trên mức
tổng thụ Hợp tác xã trích một phần của số
tổng thu để đóng các loại thuế, các loại quỹ,
các loại công khác. Còn lại mới chia cho số
điểm tổng cộng của toàn thể xã viên để ấn
định giá trị của công điểm.

Hợp tác xã sẽ tùy theo công điểm của mỗi xã
viên để trả tiền cho từng người, và với số
tiền đó xã viên đến hợp tác xã để mua gạo
về ăn. Dĩ nhiên ai cũng muốn mua gạo của hợp
tác xã theo giá chính thức thay vì mua ở ngoài
theo giá chợ đen. Nhưng điều đó không có nghĩa
là "có tiền mua tiên cũng được". Thật ra ít có
xã viên nào có đủ công điểm để mua gạo theo
đúng tiêu chuẩn ăn của mình. Và dù có dư công
điểm, số gạo được mua cũng bị hạn chế bởi
cái "mức ăn quy định" giống như gông cùm để
kềm kẹp cái miệng và bao tử.

b. Mức Ăn Quy Định:

Tức là tiêu chuẩn lương thực, bao gồm những
"cấp bậc ăn uống" khác nhau tùy theo khả năng lao
động cũng như loại lao đô.ng. Khả năng lao động
được chia theo cấp bậc A, B, C như đã nói ở
trên.

Còn các loại lao động gồm có: Lao động chính:
Những người sản xuất nông nghiệp. Lao động
phụ: Những người làm các nghề khác như đánh
cá, thủ công nghiệp, chăn nuôi, thợ nề, thợ
mộc. Mất sức lao động: Những người già cả.
Không lao động: Con nít dưới 8 tuổị

Mức ăn quy định còn thay đổi tùy theo vùng và
tùy theo từng giai đoạn.

Nguyễn văn Việt, một cán binh xâm nhập từ Bắc
Việt vào Nam, sinh năm 1952, khi hồi chánh năm 1970
mới được 18 tuổi cho biết về vấn đề thực
phẩm ở tỉnh Tuyên Quang (khu tự trị Việt Bắc
là nơi anh sinh trưởng). Trước khi Hoa Kỳ oanh tạc
miền Bắc (1965) thì anh Việt còn nhỏ tuổi nên
không lưu ý về khẩu phần gạo là bao nhiêu,
nhưng:

"...Sau khi người Mỹ ngừng ném bom miền Bắc,
đời sống của nhân dân riêng tỉnh Tuyên Quang
trở nên sung túc hơn.... Tiêu chuẩn gạo hàng
tháng của người dân khu tự trị Việt Bắc là 21
cân gạo (21 kg) cho một lao động chính, học sinh
được 18 cân, trẻ em được 6 cân".

Về lý do tại sao người dân ở khu tự trị
được tiêu chuẩn gạo cao trong khi đa số người
dân đồng bằng miền Bắc chỉ được tối đa là
13 đến 18 cân gạo, anh Việt giải thích như sau:

"Người dân ở khu tự trị Việt Bắc vốn được
ăn uống tự do, nên tiêu chuẩn 21 cân gạo một
tháng cũng là quá ít ỏị Nếu phải ăn ít hơn
nữa họ sẽ không tin tưởng vào nhà nước".

Tình trạng anh Việt mô tả là tình trạng dễ thở
tại khu tự trị Việt Bắc mà Việt cộng cần ve
vuốt nhẹ tay để tránh sự nổi loạn. Ở những
vùng khác như Thanh Hóa, vào năm 1967-1968, tiêu
chuẩn lương thực đại khái như sau:

Tiêu chuẩn gạo mỗi tháng
(lao động cừ, thừa công điểm
Loại A Số lượng
Lao động chính 9,6kg
Lao động phụ 7kg
Mất sức lao động 6,4kg

(trung bình, vừa đủ công điểm)
Loại B Số lượng
Lao động chính 8,4kg
Lao động phụ 6kg
Mất sức lao động 4,8kg
8 tuổi trở xuống 4-6kg
(lao động kém, thiếu công điểm)
Loại C Số lượng
Lao động chính 7kg
Lao động phụ 5,25Kg
Mất sức lao động 4kg
Dưới 8 tuổi 2-3kg

Ở làng Hàm Cách, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương,
tiêu chuẩn gạo cao hơn vùng Thanh Hóa nhưng, câu
hỏi đáng đặt ra ở đây là: "nếu đã trả tiền
theo công điểm thì cần gì Việt cộng phải ấn
định tiêu chuẩn lương thực?"

Anh Lê văn Hùng đã trả lời câu hỏi trên theo
hoàn cảnh ở làng Hàm Cách, nhưng câu trả lời
của anh cũng áp dụng được cho tất cả các địa
phương khác:

"Vấn đề mức ăn quy định thực sự không giản
di.. Nhà nước ấn định cho mỗi lao động chính
là 14,4 kg gạo một tháng, lao động phụ 12 kg gạo
một tháng, trẻ nhỏ dưới 10 tuổi được 6 hoặc
7 kg gạọ Thí dụ gia đình tôi 2 vợ chồng, 2 đứa
con dưới 10 tuổi, tôi được quyền mua gạo theo
tiêu chuẩn 14,4 kg cho tôi 12 kg cho vợ tôi, và 12
kg cho 2 đứa con, tổng cộng 38,4 kg gạo một
tháng. Hợp tác xã tính công điểm trả thành
tiền. Tôi lấy tiền đó mua thóc (hoặc tính ra
gạo) ở hợp tác xã. Nếu tôi làm khỏe được
nhiều điểm, tôi mua thóc đủ tiêu chuẩn, còn
thừa tiền mang về tiêu riêng và mua thực phẩm,
chứ không được quyền mua thêm quá tiêu chuẩn.
Nếu chẳng may vì ốm đau hay vì một lý do nào
đó tôi làm không đủ điểm, nhất định tôi
không đủ tiền mua thóc, thì nguy hiểm vô cùng.
Thí dụ cho dễ hiểu: Tháng X, tôi làm ít công
điểm, cả gia đình chỉ đủ mua 24 kg gạo, tức là
thiếu 14,4 kg gạọ Theo như tiêu chuẩn ấn định,
tôi không được quyền mua 14,4 kg đó, cho dù tôi
có tiền".

Tới đây, độc giả có thể hiểu "bị phạt 30%
số thóc được mua của hợp tác xã" nghĩa là gì,
và hậu quả ra saọ Đó là 30% số lương thực
để ăn trong cả vụ mùạ Nếu bị phạt 30% số thóc
được mua của hợp tác xã, người ta phải mua bù
ở chợ đen với giá cắt cổ thì chỉ có nước
treo cổ lên xà nhà để tự vận (Nhưng khổ là
Đảng không cho ai chết vì Đảng cần lao động
để sản xuất).


Tags: ccrđtạimiềnbắcphần7&8
Sunday March 29, 2009 - 08:44pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
CCRĐ TẠI MIỀN BẮC PHẦN 9-10-11 ( KẾT )

4. Phản Ứng Của Nông Dân Đối Với Hợp Tác Xã
Cấp Thấp

Sau khi đa số nông dân dại dột nghe theo Đảng
để vào hợp tác xã cấp thấp, cuộc đời của
họ tuy được sống trong những năm hòa bình và
ổn định hơn thời đấu tranh sắt máu trước
đó, nhưng điều kiện làm việc thật là khắt
khe và sự thu hoạch về cho gia đình không đủ số
dù đã làm việc như trâu bò. Hơn nữa, họ hoàn
toàn mất hết quyền tư hữu, quyền tự do, lại
thêm bị nhồi sọ ngày đêm về chính trị riết
rồi phát khùng. Nông dân nhìn ra hợp tác xã
không nhằm mục đích giúp đỡ dân, mà thực ra
là để bóc lột dân đến kiệt quệ, và họ đã
phản ứng.

Nhưng rút kinh nghiệm của cuộc đấu tranh cải
cách ruộng đất, những nông dân bất mãn không
dám tỏ ra chống đối hoặc vi phạm những quy
luật chính trị mà chỉ dám phản ứng trong phạm vi
có thể được. Vì Đảng nói rằng không ép buộc
mọi người vào hợp tác xã nên những nông dân
bất mãn đã làm đơn rút ra khỏi hợp tác xã.

Có hai loại gia đình xin ra khỏi hợp tác xã.

Loại thứ nhất gồm những gia đình có đông
người mạnh khỏe, có trâu bò, và họ lại là
những người lao động giỏi, siêng năng. Nhưng ở
trong hợp tác xã dù làm giỏi, dư công điểm cũng
phải bán hết số thu hoạch cho nhà nước theo chế
độ "thu mua".

Loại thứ hai gồm những gia đình thiếu người
lao động giỏi, nên vụ mùa nào cũng thiếu điểm,
mang nợ liên tiếp trong nhiều mùa, mà còn bị
nhục mạ là lười biếng, ích kỷ, không tích cực
đối với quyền lợi tập thể.

Khi những cá nhân riêng lẻ này rút ra khỏi hợp
tác xã thì họ đã hành động đơn phương chứ
không dám rủ nhau, nhưng vì nhiều người đơn
phương rút ra nên tình cờ đã biến thành phong
trào xảy ra khắp nơi, làm cho nhiều hợp tác xã
phải giải tán. Ví dụ ở vùng Bình Cát, Thanh Thủy,
Thanh Hóa, Việt cộng phải giải tán 3 hợp tác xã ^.t để gom lại
làm một. Ở vùng Xích Thổ, Ninh
Bình, nhiều hợp tác xã phải giải tán toàn bộ
để tổ chức lạị

Đối với khu tự trị Thái Mèo, vì đồng bào
thiểu số chống đối mạnh nên cho mãi tới năm
1964 vẫn chưa tiến lên được hợp tác xã cấp
thấp. Nói chung trên toàn miền Bắc trước kia
vẫn có một số nông dân đứng ngoài hợp tác
xã và Việt cộng vẫn để yên cho họ sống.
Những người này trao đi đổi lại những sản
phẩm với nhau và làm thành một thứ thị trường
ngoài hợp tác xã mà ta gọi là thị trường tự do
và chợ đen.

Việt Cộng Đối Phó Ra Saỏ

Khi những người xã viên rút ra khỏi hợp tác xã,
lối làm ăn cá thể và thị trường tự do đột
nhiên lớn hẳn lên và đe dọa quyền lực Đảng,
do đó Việt cộng chỉ thị cho các chính quyền
địa phương và ban quản trị hợp tác xã phải có
biện pháp đối phó. Có ba biện pháp chính
được áp du.ng.

Biện pháp tuyên truyền giáo dục và dùng đoàn
viên vận động với gia đình

Đối với các đoàn viên (chưa phải là đảng
viên) có gia đình ra khỏi hợp tác xã, Đảng và
Đoàn áp dụng biện pháp kỷ luật như phê bình
kiểm thảo, áp lực để đoàn viên dùng tình cảm
lôi kéo gia đình trở lại hợp tác xã. Nếu không
thành công có thể dùng biện pháp khai trừ khỏi
Đoàn.

Biện pháp này cũng không đạt nhiều kết quả, và
Việt cộng phải tiến thêm một bước nữạ

Biện pháp cấp thẻ xã viên

Thẻ xã viên có công dụng cho xã viên có thể mua
đồ dùng hay thực phẩm ở Mậu Dịch Quốc Doanh.
Biện pháp này tương đối hữu hiệu hơn, vì đa
số xã viên sống bằng nông nghiệp, nên khi ra
khỏi hợp tác xã chỉ có thể cấy lúạ Nhưng khi
muốn có muối ăn, vải mặc, họ phải tới cửa
hàng mậu dịch Diêm-Nghiệp hoặc mậu dịch của
hợp tác xã dệt vải để muạ (các ngành này
đều được tổ chức thành hợp tác xã). Nếu
không có thẻ xã viên thì không mua được muối
được vảị Biện pháp này tương đối có hiệu
quả hơn và đã buộc nhiều người quay trở vào
hợp tác xã.

Biện pháp khoanh vùng

Nói chung, đối với những xã viên ra khỏi hợp
tác xã, ban quản trị phải trả lại đất. Nhưng vì
những bờ ruộng đều phá hết cả, nên không ai
có thể nói rằng đất cũ của mình ở đâụ Lợi
dụng tình trạng này, hợp tác xã đã đưa ra biện
pháp khoanh vùng để bóp chết những nông dân
nàỵ Hợp tác xã đã dành những mảnh đất thật
xấu hoặc ở những vùng cao không có nước, lại
bị ruộng của hợp tác xã bao vây, muốn lấy
nước vào ruộng không được vì hợp tác xã
không cho nước chảy quạ Cuối cùng nhiều người
đành phải trở vào hợp tác xã, và tất cả đều
phải bị phạt công điểm rất nă.ng.

Cũng vào khoảng mùa Đông 1957, miền Bắc bị mất
mùa rất trầm trọng, khắp nơi bị đói, và Đảng
đã tổ chức cứu trợ, nhưng chỉ cứu những
người ở trong hợp tác xã mà thôị Dĩ nhiên,
những ai ở ngoài hợp tác xã nếu muốn khỏi
chết đói thì phải gia nhập hợp tác xã. Thật ra
nếu năm 1957 không có nạn đói thì sớm muộn gì
cũng có một nạn đói khác để giúp Đảng thanh
toán hợp tác xã cấp thấp vì từ năm 1956 tới
1968 miền Bắc đã trải qua 7, 8 lần mất mùa đói
kém.

Tại những nơi mà đa số nông dân bị bắt buộc
phải quay trở lại hợp tác xã, Đảng bèn thừa
thắng xông lên, đẩy mạnh phong trào Hợp Tác Xã
Cấp Caọ Điển hình là tại làng Hàm Cách lúc này
nông dân đã hoàn toàn bị đoàn ngũ hóa và Đảng
đề ra chiến dịch cải tiến đợt I với khẩu
hiệu "công hữu hóa ruộng đất trâu bò", và
thanh toán nốt số 5% hoa mầu mà nông dân được
hưởng trong hợp tác xã cấp thấp.

oOo

Trong giai đoạn hợp tác xã cấp cao, Đảng đã gia
tăng năng xuất nông dân như thế nào, và nông
dân "sung sướng" như thế nào, đó là điều
chúng ta sẽ nghiên cứu trong kỳ tớị





Cải cách ruộng đất Miền Bắc (7)

Xây Dựng Lực Lượng Để Chuẩn Bị Xâm Chiếm
Miền Nam

Ngày 21-7-1954, trong buổi họp kết thúc hội nghị
Genève, Phạm Văn Đồng tuyên bố sẽ đạt tới
thống nhất như đã chiến thắng nước Pháp.
Ngày hôm sau, 22-7-1954, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
sự quyết tâm này bằng cách công khai kêu gọi
nhân dân miền Bắc đấu tranh gian khổ và
trường kỳ để chiếm cho được miền Nam, mà họ
Hồ gọi là "lãnh thổ của chúng ta". Để có thể
chiếm được miềnNam, Việt cộng phải củng cố
ách thống trị trên miền Bắc, một công việc mà
Hồ Chí Minh gọi là "Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa".

Sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Việt cộng đã
đoàn ngũ hóa được khối nhân lực ở nông
thôn. Đồng thời cuộc cải tạo tư bản tư doanh,
đưa đến công tư hợp doanh, và biến thành quốc
doanh cùng hợp tác hóa nông nghiệp, đăng ký hộ
khẩu giúp nhà nước cộng sản đoàn ngũ hóa
được khối nhân lực thành thi.. Tổng cộng trong
những năm sau đó, Việt cộng đã động viên
được một khối nhân lực lao động lên tới
9.600.000 người dưới sự lãnh đạo sản xuất của
nhà nước. Họ làm đêm làm ngày, tăng gia sản
xuất, "một người làm việc bằng hai" để tăng
cường củng cố sức mạnh của chế độc và
chuẩn bị xâm chiếm miềnNam. Tất cả các nỗ
lực của miềnBắc đều dồn vào việc thực
hiện hai mục tiêu trên.

Tháng 2 năm 1957, Việt cộng triệu tập Đại Hội
Trung Ương Đảng Lao Động khóa 12 để thông qua
kế hoạch nhà nước năm 1957, và để tăng cường
quốc phòng.

Tháng 4 năm 1960, quốc hội bù nhìn Việt cộng
thông qua đạo luật động viên thanh niên miền
Bắc mà Việt cộng gọi là đạo luật về Nghĩa
Vụ Quân Sư..

Đó là những nét đại cương về đường lối
chính sách trên phương diện quân sư.. Nhìn lại
thực tế thì, vào thời điểm 1955 sau khi chiếm
được miềnBắc, cuộc chiến tranh chống Pháp
đã để lại cho Việt cộng một quân đội tuy
háo chiến nhưng còn yếu kém về tổ chức và kỹ
thuật hiện đạị Muốn xâm lăng miềnNam, Việt
cộng cần cải tổ lại quân đội đó. Công tác
này được gọi là "công cuộc xây dựng quân
đội chính quy miền Bắc" mà ta sẽ nói ở phần
saụ Nhưng công tác này không đòi hỏi nhiều thì
giờ cho bằng công tác xây dựng kinh tế
miềnBắc, vì muốn vơ vét nhân lực miền Bắc,
cộng sản đã lợi dụng luôn lực lượng quân
đội làm cái khung cho công việc sản xuất, và
chuẩn bị các cơ sở có tính cách phục vụ cho
một cuộc chiến tranh lâu dàị Với ý niệm trên,
trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu 3 chủ
đề chính:

- Tổng Biên Chế quân đội miềnBắc.

- Xây dựng các công trình sản xuất chiến lược,
cơ sở quân sự và xa lộ chiến lược.

- Xây dựng lực lượng chính quy Việt cộng trong
đó có công tác hiện đại và công tác chính trị
hóa quân độị

Ị Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc

Năm 1956 Phạm Văn Đồng "đệ trình" lên quốc
hội bù nhìn Việt cộng dự luật "Giảm Trừ Quân
Bị". Nguyễn Ngọc Mai, một hồi chánh viên thuật
lại:

"Theo dự luật này, Việt cộng nói rằng sẽ giảm
bớt 80.000 bộ đội chính quy, và tuyên truyền
ầm lên rằng miềnNam vi phạm hiệp định Geneve,
không chịu Hiệp Thương Tổng Tuyển Cử". Thực
chất của vấn đề là Việt cộng miền Bắc dùng
dự luật Giảm Trừ Quân Bị làm bình phong cho
chính sách Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc.
Danh từ Tổng Biên Chế có nghĩa là chuyển một
cách quy mô số 80.000 quân đội từ công tác
chiến đấu sang công tác sản xuất mà vẫn duy
trì khả năng võ trang. Danh từ Tổng Biên Chế
khác với danh từ Phục Viên của Việt cộng dùng
để chỉ việc giải ngũ quân đội cho họ trở
thành thường dân. Phục viên có nghĩa là về
vườn (mượn của Tàu).

Điểm chủ yếu của chính sách Tổng Biên Chế
quân đội Miền Bắc là quân đội đóng vai trò
chính trong mọi công tác sản xuất, làm thành phần
tiên phong để xây dựng nhất là ngành công
nghiệp và nông nghiệp. Sau chiến dịch sửa sai và
ổn định tình hình chính trị, ổn định tình hình
an ninh lãnh thổ. Việt cộng đặt một kế hoạch
ba năm (1957,1958,1959) ổn định kinh tế với mức
yêu cầu là phải đạt được nền kinh tế 1939
(Việt cộng lấy tiêu chuẩn năng suất canh nông
của năm 1939 là năm tấn mỗi hectare). Chính sách
Tổng Biên Chế quân đội mang phần lớn nhân
lực của quân đội Việt cộng ra thực hiện công
tác phục hồi kinh tế và chỉ giữ lại một số
quân thường trực để đáp ứng tình hình.

1. Sự lợi hại của chính sách Tổng Biên Chế

Chính sách Tổng Biên Chế đã giải quyết một
lúc hai vấn đề gai góc: - Thứ nhất là các đơn
vị Miền Nam ra tập kết ngoài Bắc, sau công tác
đàn áp di cư và Cải Cách Ruộng Đất, trở nên
dư thừa và có nhiều bộ đội tập kết thất
vọng vì Hồ Chí Minh không thực hiện được sự
thống nhất đất nước qua một cuộc tổng
tuyển cử như đã hứa hẹn long tro.ng. Không
thống nhất được đất nước, nghĩa là sau 2
năm xa cách miền Nam những bộ đội tập kết ra
Bắc nhìn thấy hy vọng được phép về đoàn tụ
với gia đình trở nên quá mờ mịt. Trong 5 năm hay
10 năm, chưa chắc đã gặp lại thân nhân còn ở
lại miền Nam, việc "hội nhập" một số đông
đảo thanh niên gốc miền Nam ở đất Bắc là
một vấn đề khó khăn, gây nhiều áp lực tâm
lý trên tập thể nàỵ

Đề ra chính sách Tổng Biên Chế, Việt cộng
hứa hẹn sẽ xây dựng gia đình cho các anh em bộ
đội tập kết bằng cách đưa anh em đi khai phá
miền thượng du lập nông trường, nơi mà nhà
nước gọi là "quê hương mới". Khi đã đưa anh em
tới nơi khai phá nông trường, một mặt nhà
nước hứa hẹn xây dựng vợ con cho bộ đội,
một mặt ra lệnh cho Tỉnh uỷ địa phương tuyển
mộ những thiếu nữ địa phương từ 18 tới 25
tuổi vào làm công nhân trong nông trường. Các
nữ công nhân này khi đã vào trong nông trường
mới biết rằng mình không được phép ra khỏi
nông trường, vì lệnh trên truyền xuống là bất
cứ nữ công nhân nào muốn ra nông trường phải
có giấy phép của "chồng" . Như vậy họ chỉ còn
có cách lấy bộ đội tập kết chứ còn cách
nào khác nữa! Tình trạng này đã đưa đến
những sự mâu thuẫn giữa bộ đội tập kết và
dân chúng địa phương, vì trong số những nữ
công nhân bị đưa vào nông trường, có nhiều
người đã hứa hôn với thanh niên tại địa
phương. Do đó nhiều thanh niên địa phương tìm
đánh bộ đội tập kết vì cho rằng các anh em
tập kết đã chiếm đất lại còn chiếm cả vợ
của họ nữạ

Vấn đề gai góc thứ hai là tại Việt cộng có
nhiều nơi ở đồng bằng dân cư quá đông, mà
đất đai cằn cỗi không canh tác được, trong khi
ở miền thượng du nhiều nơi đất còn nguyên
mầu mỡ chưa được khai phá. Những người nông
dân Việt Nam rất sợ nơi rừng thiêng nước
độc, vả lại công việc phá rừng lấy đất
trồng trọt là một công tác cực kỳ gian khổ.
Đề ra chính sách Tổng Biên Chế quân đội,
đảng và nhà nước có một lực lượng nhân công
có sẵn tinh thần kỷ luật, chịu đựng gian khổ.

Có nhiều nông trường "quê hương mới" được
bắt đầu thiết lập từ 1957-1958, mà quan trọng
nhất phải kể nông trường Lam Sơn ở Thanh Hóa,
nông trường Đồng Vàng ở Phú Thọ, nông trường
Gỗ Cao-Bắc-Lạng (thuộc ba tỉnh Cao Bằng, Bắc
Kạn và Lạng Sơn).

Tại nông trường Lam Sơn, chính sách Tổng Biên
Chế sử dụng bộ đội của Sư đoàn 338 tập
kết, mỗi tiểu đoàn lấy ra một đại đội
xuất sắc. Sự gian khổ cực nhọc của công việc
khai phá nông trường có khi còn vượt quá mức
độ ở nông thôn, nơi giờ lao động hàng ngày
là 12 giờ, từ 6 giờ sáng tới 6 giờ tốị Một
cán binh tập kết thuộc Sư đoàn 338 đã phải
phục vụ tại nông trường Lam Sơn 3 năm từ 1958
đến 1961, kể lại nỗi gian khổ và công trình
trồng cà phê, cao su:

"Công việc khai thác rừng để thành lập nông
trường là một công tác cực nhọc vô biên, không
tả xiết. Từ nhỏ đến lớn, chưa bao giờ tôi
phải làm cực nhọc như thế. Nông trường lấy
tên là nông trường Lam Sơn tại huyện Hòa Lạc,
tỉnh Thanh Hóa, quê hương vua Lê Lợị Chúng tôi
đến đây phá rừng để trồng cà phê, cao su và
chăn nuôi trâu bò gà vịt. Chiến sĩ lúc này trở
thành một tên cu-li, đầu đội nón lá tay cầm
rựa suốt ngày đi chặt cây đốt rừng, cuốc
đất v.v.... Nắng cháy da thịt. Chúng tôi có cảm
tưởng như tù khổ sai bị đầy ải..." (Nguyễn
Văn Hoài). Ngoài Sư đoàn 338 tập kết, tại Nông
trường Lam Sơn còn có nhiều đơn vị khác nữa
vì tổng số bộ đội tập kết tại đây là 39
đại đội, mỗi đại đội phụ trách một khu
rừng và được tăng cường thêm một số công
nhân địa phương.

"Đời sống anh em mình ngày Bắc đêm Nam" đó là
câu nói thường xuyên của các anh em tập kết, có
nghĩa là ban ngày gian lao khổ cực không còn thì
giờ suy nghĩ nhưng đêm xuống là tâm hồn bộ
đội tập kết đều hướng về miền Nam nơi gia
đình thân yêu đương sống.

Tại nông trường Đồng Vàng, Phú Thọ, bộ đội
tập kết được tổng biên chế để khai khẩn
nông trường trồng trà và cà phệ Thượng uý
Đặng Anh Kiến thuộc Trung đoàn tập kết 96 từ
An Khê ra Bắc và hoạt động tại nông trường
Đồng Vàng, cho biết hai phần ba trung đoàn và cơ
quan Trung đoàn Bộ được đưa tới nông trường:

"...Lúc mới đầu tuy sản xuất nhưng vẫn giữ
nguyên cách thức tổ chức và điều hành của
quân đội, nhưng về sau, khi nông trường đã
hoạt động đều, hình thức quân đội được
xoá bỏ. Anh em bộ đội biến thành công nhân của
nông trường, trực thuộc Bộ Nông Trường. Nghĩa
là họ chính thức thành công nhân, họ ăn lương
theo cấp bậc công nhân nông trường chứ không
còn ăn lương của quân đội nữa.... Trong thời
gian khai phá nông trường Đồng Vàng (lúc ban
đầu) chúng tôi vẫn ăn uống theo chế độ cung
cấp của quân đội) 1 ngày là 0.70 đồng (tức là
21 đồng một tháng). Ngoài ra chúng tôi không
được bồi dưỡng thêm gì cả. Có thể nói thời
gian này mồ hôi chúng tôi đổ rất nhiều..."

"... Sau khi các nông trường đã hoàn chỉnh, nghĩa
là các nông trường đã bắt đầu hoạt động
thì nhà nước đẩy các chị em phụ nữ chưa
chồng vào các nông trường. Và sau đó, anh em bộ
đội và chị em phụ nữ xây dựng với nhau thành
những cặp vợ chồng. Trong tinh thần đó các
nông trường dần dần lớn mạnh và trở thành
những trung tâm kinh tế đông dân cư...". Chính
sách Tổng Biên Chế không phải chỉ đem quân đội
vào nông trường, mà nói chung vào tất cả mọi
ngành:

"Nông trường là ngành mà quân đội xây dựng
đến 80% hay 90% Về công nghiệp (công trường)
quân đội cũng chuyển ngành qua xây dựng, như khu
công nghiệp Việt Trì là do Trung đoàn 108 thuộc
Sư đoàn 305 xây dựng hoàn toàn, hoặc khu Liên
Hợp Gang Thép Thái Nguyên là do Sư đoàn 316 xây
dựng.... Hoặc công tác cải tạo tư bản tư doanh,
công tư hợp doanh ở thành thị cũng đều do cán
bộ quân đội đảm trách... "Có thể nói quân
đội chiếm trên 90%.Ngay công an dân cảnh Hà Nội
bây giờ, các hầm mỏ, cảng Hải Phòng". (Đăng Anh
Kiến). Ngoài việc Tổng Biên Chế các đơn vị
chiến đấu chính quy để làm công tác sản xuất,
Việt cộng bắt bộ đội phải thi hành Lời Thề
Thứ 5: "Quân đội làm tròn trách nhiệm là chiến
đấu và sản xuất" . Vì thế các đơn vị chủ
lực của các tỉnh, hay các đơn vị công binh, cầu
đường sống tại căn cứ, ít di chuyển cũng phải
sản xuất để tự túc cung cấp lương thực một
tháng mỗi năm. Các đơn vị này còn phải chăn
nuôi thêm để trực tiếp cung cấp thịt ăn.

2. Các Nông Trường, Công Trường Do Quân Đội
Được Tổng Biên Chế Để Xây Dựng Và Quản Lý

Mặc dầu các cán binh bị đem vào nông trường và
công trường làm công tác sản xuất như một công
nhân viên, họ vẫn phải nằm trong khuôn khổ huấn
luyện quân sư.. Trên toàn miền Bắc có 43 nông
trường, thì 32 cái được gọi là nông trường
quân đội, trong đó hàng tuần công nhân được
huấn luyện quân sự, và được biên chế vào
các đơn vị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn
chiến đấụ

Một hồi chánh viên cho biết như sau:

"Mỗi nông trường coi như một trung đoàn tự
vê.. Khi cần thiết họ có thể điều động một
lúc hàng trăm người ra chiến đấu ngay được,
ví dụ cụ thể năm 1961, nông trường Rạng Đông
tỉnh Nam Định thuộc Quân khu Hữu Ngạn Sông Hồng
điều động một lần được 300 sĩ quan và binh
sĩ đi chiến đấu ở chiến trường B (miền Nam)
chiến trường C (Lào) và sau đó mỗi quý, mỗi 6
tháng hay một năm lại điều động một loạt cho
đến khi hết cựu sĩ quan và binh sĩ ở nông
trường mới ngưng lạị Như vậy mục đích họ
thành lập nông trường Quốc doanh do bộ đội
chuyển ngành sang (Tổng Biên Chế) là để giữ
lượng cựu sĩ quan và binh sĩ lại để vừa sản
xuất kinh doanh vừa huấn luyện quân sự, và khi
cần thiết có thể điều động ngay ra chiến
trường chiến đấu...". Các nông trường còn là
nguồn bổ sung lực lượng trừ bi.. Đó là các
thanh niên được tuyển từ các thành phố, thị
xã hoặc các vùng nông thôn vào làm công nhân
trong nông trường. Một khi đã vào nông trường,
họ bị khép vào kỷ luật quân đội, kỷ luật tập
thể, phải học tập chính trị và bị nhồi sọ
bằng tư tưởng Mác-xít.

Trên phương diện an ninh diện địa, các nông
trường còn có nhiệm vụ phòng thủ biên giới,
bờ biển và các vị trí trọng yếu như ta sẽ
thấy trên bản đồ dưới đâỵ

(xem bản đồ)

- Hai tỉnh Sơn La, Lai Châu ở phía Tây-Bắc của
Việt cộng có 2 nông trường Điện Biên Phủ và
nông trường Mộc Châu do hai trung đoàn thuộc Sư
đoàn 305 tập kết và 316 đóng giữ.

- Tỉnh Sơn Tây có nông trường Xuân Mai do một
trung đoàn của Sư đoàn 338 tập kết trấn đóng.

- Tỉnh Thanh Hóa có nông trường Sao Vàng do một
trung đoàn của Sư đoàn 338 quản trị, cùng với
nhiều đơn vị khác, tổng cộng 39 đại đội tập
kết (tương đương một Sư đoàn).

- Tỉnh Nam Định có nông trường Rạng Đông do Trung
đoàn độc lập 269 quản tri..

- Tỉnh Ninh Bình có nông trường Bình Minh do Trung
đoàn độc lập 271 quản tri..

- Tỉnh Nghệ An có các nông trường Sông Con, Đông
Tây Hiếu do một trung đoàn của Sư đoàn 324 tập
kết quản tri..

- Tỉnh Quảng Bình có nông trường Lệ Thủy do một
trung đoàn của Sư đoàn 325 tập kết quản tri..

- Tỉnh Phú Thọ có nông trường Đồng Vàng do Trung
đoàn tập kết 96 (từ An khê ra Bắc) quản tri..

- Khu công nghiệp Việt Trì do Trung đoàn 108 thuộc
Sư đoàn 305 tập kết quản tri..

- Khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên do Sư đoàn 316
xây dựng và quản tri..

3. Hệ Thống Tổ Chức Các Nông Trường, Công
Trường

Mặc dầu các nông trường, công trường quốc
doanh là do quân đội xây dựng và quản trị, nhưng
các nông trường đều do một bộ nông trường
chỉ huy trên phương diện chính quyền, và các
Đảng uỷ trong nông trường thì chịu sự lãnh đạo
trực tiếp của Tỉnh uỷ chứ không ở dưới sự
lãnh đạo của Huyện uỷ địa phương, mặc dầu
trên phương diện địa dư nó có thể nằm trong
phạm vi một huyện. Ví dụ nông trường Rạng Đông
thuộc phạm vi địa dư và hành chánh huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam Định, thì Đảng uỷ nông trường
chịu sự điều khiển của tỉnh uỷ Nam Định, mặc
dầu trong những vấn đề hành chánh thì cũng có
liên lạc hội ý với cơ quan hành chánh địa
phương của huyện Nghĩa Hưng.

Những nông trường hoặc công trường tùy theo
phạm vi lớn nhỏ phải sử dụng ít hoặc nhiều
công nhân, hoặc phải dùng cơ giớị Ví dụ khu
Liên hợp Gang Thép Thái Nguyên là một công
trường đại quy mô có tới 20.000 nhân công. Nông
trường Rạng Đông là một nông trường trung quy
mô, còn gọi là nông trường loại II, sử dụng
khoảng 2500 cán bộ và công nhân (từ 2.500 đến
5.000 nhân công là trung quy mộ Theo tài liệu phỏng
vấn các hồi chánh viên, hệ thống tổ chức của
một nông trường điển hình có thể được mô
tả theo sơ đồ dưới đây của nông trường Rạng
Đông. (xem sơ đồ)

Nông trường trung quy mô nói trên có một Giám
đốc và 2 Phó giám đốc, dưới sự lãnh đạo
của một bí thư Đảng uỷ với cấp bậc Đại úy
hoặc Thiếu tá trong quân độị Quân hàm của Phó
giám đốc là Thượng úỵ

Bên công đoàn có một thư ký công đoàn cấp
bậc Thượng úy và 2 thư ký công đoàn cấp bậc
Trung úy có nhiệm vụ giám sát kiểm tra từ Giám
đốc xuống đến công nhân, mặc dầu trên danh
nghĩa là để bảo vệ quyền lợi công nhân.

Tổ Chức Công Đoàn Trong Nông Trường

Công đoàn là tổ chức hàng dọc để đoàn ngũ
hoá mọi công nhân không phải là đảng viên, và
như vậy, không có một công nhân nào thoát ra
khỏi màng lưới của đảng và nhà nước.

Danh từ Công Đoàn khiến nhiều người bên ngoài
nhầm lẫn với Công Đoàn của các nước tự do
nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân, hoặc
trong một số trường hợp bảo vệ quyền lợi
riêng của một bọn đầu nậụ Dưới chế độ
Việt cộng, bọn đầu nậu chính là đảng, và
đảng kiểm soát công nhân một cách chặt chẽ qua
Công Đoàn và hệ thống Đảng ủỵ

Tổ Chức Đảng Ủy Trong Nông Trường

Giống như trong hợp tác xã nông nghiệp hay bất
cứ một tổ chức quy mô nào của cộng sản, Đảng
ủy giống như hệ thống thần kinh nối liền cấp
chỉ huy xuống tới mọi thành phần nhỏ nhất là
một đội hoặc một tổ sản xuất. Đảng ủy từ
cao xuống thấp có tên gọi là Chi ủy, Chi bộ,
Liên tổ đảng và Tổ đảng, có nhiệm vụ lãnh
đạo, giám sát, làm đầu tàu gương mẫu để
thúc đẩy và bắt buộc công nhân lao động sản
xuất. Cũng giống như trong hợp tác xã nông
nghiệp, "làm việc tại đồng, phân công tại sở",
trong nông trường quốc doanh cán bộ có nhiệm vụ
thi công, tức là thi hành công tác bằng cách chỉ
tay năm ngón phân phối công việc, còn công nhân
đổ mồ hôi và sức lao động xuống nông
trường. Về tình trạng bóc lột công nhân trong
các nông trường và công trường, ta sẽ có dịp
nghiên cứu một cách chi tiết trong tương lai, khi
nói về những nỗ lực đẩy mạnh chiến tranh của
Việt cô.ng.

IỊ Xây Dựng Các Công Trình Sản Xuất ChiếN
Lược, Cơ Sở Quân Sự Và Xa Lộ Chiến Lược

Đầu tháng 9 năm 1960, Đại Hội Đảng Lao Động
Việt cộng lần thứ III họp tại Hà Nội để
thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhằm
xây dựng một nền công nghiệp làm "cơ sở vật
chất của xã hội chủ nghĩa", mà căn bản là
chiến tranh bành trướng.

Bắt đầu từ năm 1961 trở đi rất nhiều xí
nghiệp kỹ nghệ được thiết lập, và các nhà
máy này được xây dựng chung quanh các khu công
nghiệp quan trọng nhất sau đây:

- Khu công nghiệp Hà Nội

- Khu công nghiệp Hải Phòng

- Khu công nghiệp Việt Trì (khánh thành ngày
18-1-1962)

- Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên

1. Sản xuất chiến lược

Nằm trong mục tiêu chiến lược dài hạn, ngành
công nghiệp nặng được chú trọng đặc biệt.
Với sự giúp đỡ của Liên Xô và khối cộng
sản, Việt cộng đã đẩy mạnh việc sản xuất
điện lực, khai thác than đá và luyện thép.

Các nhà Máy Điện quan trọng nhất là:

Nhà máy thủy điện Bàn Thạch, Thanh Hóa (khánh
thành ngày 2-1-1962)

Nhà máy thủy điện Thác Bà, Bắc Kạn
Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, Hồng Quảng
Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, Thái Nguyên
Nhà máy nhiệt điện Cọc 5, Cẩm Phả
Nhà máy nhiệt điện Lào Kay
Nhà máy nhiệt điện Việt Trì
Nhà máy nhiệt điện Hà Nội
Nhà máy nhiệt điện Vinh

và một trạm biến điện lớn nhất miền Bắc
tại Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, với đường
giây điện cao thế Đông Anh Thái Nguyên, khánh
thành ngày 5-1-1963.

Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc
viện trợ là một kỳ vọng của Việt cộng cho
nền công nghiệp nặng và nền kinh tế tự túc
và chiến lược. Khu gang thép dùng 20.000 công nhân
làm việc ngày đêm, và năm 1965 mức sản xuất
lên tới 150,000 tấn. Ngày 20-12-1963 Việt cộng
khánh thành lò luyện thép đầu tiên tại Thái
Nguyên. Ngày 23-9-1965, lò luyện thép số II được
khánh thành.

Song song với nền công nghiệp gang thép là việc
khai thác than đá tại khu vực Hòn Gay, Đông
Triều, Cẩm Phả, Vàng Gianh, Thái Nguyên phần lớn
là loại anthracite (năng xuất nhiệt rất cao) và
số lượng sản xuất năm 1965 đã lên tới
4.000.000 tấn.

Vẫn trong phạm vi mục tiêu chiến lược lâu dài,
Việt cộng thiết lập những ngành sản xuất có
tính chất lưỡng thể, cần thiết trong thời
bình cũng như thời chiến:

- Các nhà máy phân đạm Hà-Bắc: Trong thời bình,
các nhà máy này yểm trợ cho canh nông, còn trong
thời chiến chỉ cần thay đổi công thức hóa học
một chút để sản xuất thuốc nổ.

- Các nhà máy cơ khí: nhà máy cơ khí Hà Nội,
nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy cơ khí xe
lửa Gia Lâm, nhà máy cơ khí Lương Yên, nhà máy
sửa chữa xe hơi "1 tháng 5", nhà máy cơ khí ZK
120. Để phục vụ chiến tranh các nhà máy có thể
sản xuất võ khí, vỏ lựu đạn, vỏ mìn, một số
phụ tùng thay thế cho đại bác, xe tăng v.v....





Cải cách ruộng đất Miền Bắc (8)

2. Sản xuất hàng tiêu thu..

- Có lẽ Hà Nội nghĩ rằng với sách lược chiến
tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng, các nước
chống cộng không có lý do can thiệp mạnh tới
mức độ oanh tạc Miền Bắc và tàn phá nền kỹ
nghệ của cộng sản. Vì thế Hà Nội đã xây
dựng hàng loạt những nhà máy sản xuất đồ tiêu
thụ (danh từ Việt cộng gọi là hàng tiêu dùng)
để cho các cấp cán bộ đảng được ưu đãi
sử dụng theo "phiếu cung cấp", còn công nhân viên
phải là những người xuất sắc trong những
người xuất sắc nhất mới được rút thăm (danh
từ Việt cộng gọi là "bình bầu chiến sĩ thi
đua") để mua trong những dịp đặc biệt. Những
nhà máy này tập trung ở những khu vực quan trọng
dưới đâỵ

- Khu Hải Phòng: Nhà máy len, nhà máy đồ hộp,
nhà máy hóa chất, nhà máy thủy tinh.

-Khu công nghiệp Việt Trì: Nhà máy hoá chất, nhà
máy mì chính, nhà máy giấy, nhà máy đường, nhà
máy sấy chuối khộ

-Khu công nghiệp Hà Nội: Nhà máy phích nước,
bóng đèn, nhà máy Cao-Xà-Lá (cao su, xà phòng,
thuốc lá) do Trung Quốc viện trợ và được
khánh thành ngày 18-5-1960; nhà máy dệt kim Đồng
Xuân (dệt áo lót và bí tất) do Trung Quốc viện
trợ, khánh thành ngày 13-4-1959; nhà máy xe đạp
Thống Nhất, nhà máy Pin Văn Điể^n tà máy in
Tiến Bộ, nhà máy diêm Thống Nhất v.v....

3. Những công trình xây cất chiến lược.

Ngoài những nhà máy sản xuất võ khí như công
trường 14 ở Tuyên Quang (sản xuất súng AK mang
nhãn hiệu Trung Quốc, lựu đạn, súng đại bác,
mìn) Việt cộng xúc tiến mạnh mẽ những công
trình chiến lược có tính cách quan trọng như sân
bay, đường chiến lược với sự giúp đỡ của
Liên Xô và Trung Quốc. Tại mỗi tỉnh của miền
Bắc ngày nay đều có một phi trường chiến
lược dành riêng cho mục tiêu quân sư.. Ngoài
những phi trường quan trọng có từ trước như
sân bay Cát-Bi, sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm,
được mở rộng, Việt cộng còn xây cất thêm
các phi đạo quan trọng khác như:

- Sân bay Đa Phúc (Vĩnh Yên)

- Sân bay Hòa Lạc (Sơn Tây)

- Sân bay Kép (Bắc Giang)

- Sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa)

Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thủy lợi nói về phi
trường Đa Phúc tại Vĩnh Yên:

"...Tôi biết rõ nhất là sân bay Đa Phúc vì sân
bay này ở ngay cạnh đập Đại Lãị Khi bộ Giao
thông Vận tải thiết kế sân bay này cũng có tham
khảo ý kiến của tôị Theo như họ nói thì sân bay
Đa Phúc là sân bay chiến lược lớn nhất Đông
Nam Á, có thể chứa được từ 500 tới 700 phi cơ
phản lực Mig, tuyệt đối không có máy bay vận
tải tại đâỵ Phi trường này rộng một chiều 12
km và một chiều 9km. Nằm theo trục quốc lộ số
2 và số 3. Đường bay được làm rất kỹ với
các lớp đệm cát rất dày và mặt đường bay
được lát bằng tấm bê tông dày từ 50 phân
tới 70 phân. Bởi vì làm bằng các tấm bê tông
như vậy nên khi bị đánh phá hư hỏng trong các vụ
oanh tạc của Mỹ ở miền Bắc, phi trường được
sửa chữa và sử dụng lại mau chóng bởi vì đã
có sẵn các tấm bê tông. Hơn nữa phi trường Đa
Phúc ở cạnh núi Sóc Sơn nên có nhiều hầm hố
kiên cố do Nhật để lại, nay Việt cộng dùng
để chứa nhiên liệu hoặc cất dấu máy bay rất
kín đáo..." (Nguyễn Văn Thân). Về đường bộ
có việc xây cất hai con đường chiến lược quan
trọng do Trung Quốc thiết kế và thi công:

"...Đường thứ nhất là đường từ biên giới
Trung Quốc qua các tỉnh Bắc Kạn, Bắc-Thái (Bắc
Giang và Thái Nguyên) đường rộng từ 18 thước
tới 24 thước, không tráng nhựa mà trải đá lớn
dầy 50 phân rồi đổ đá dăm và đất Biên Hòa
cán bằng. Nói tóm lại các tỉnh ven biên giới
Việt Nam-Trung Quốc đều do Trung Quốc đài tho..
Các đường này đều được mở cấp tốc từ
khoảng năm 1961-1962, và có thể chịu đựng được
các chiến xa nặng khoảng 70 tấn".

Con đường chiến lược lớn thứ hai là đường
lộ từ Trung Quốc qua biên giới Việt Nam đến
Điện Biên Phủ rồi sang Lào tới Cánh đồng Chum,
Savanakhet. Đường này đã có từ trước, nay chỉ
làm công tác mở rộng và đảm bảo lại cho chắc
chắn, kỹ càng hơn..." (Nguyễn Văn Thân). Theo kỹ
sư Nguyễn Văn Thân thì con đường chiến lược
Điện Biên Phủ tới cánh đồng Chum và Savanakhet
đã có từ trước, nhưng đương sự không cho
biết có từ bao giờ. Hệ thống này không thể
là hệ thống quốc lộ số 13 vì quốc lộ này
nằm trong khu vực quân đội Hoàng gia Lào, khiến
cho Việt cộng không thể sử dụng thường xuyên
cho những đoàn xe vận tải như thực tế đã
chứng tỏ. Ở một đoạn khác, Nguyễn Văn Thân
nói rõ con đường chiến lược này song song với
đường mòn thượng đạo (sách báo Tây phương
quen gọi là đường mòn Hồ Chí Minh) vì trong khi
đi đường vẫn nghe thấy tiếng xe ô tô di
chuyển gần đó. Nhưng đương sự lại gọi lầm
đường đó là đường số 9 đưa đến Khe Sanh
bởi vì đường số 9 băng ngang từ Việt Nam qua
Lào tới Savanakhet, chứ không chạy song song với
đường mòn thượng đạo dọc biên giới Việt
Làọ

Ngoài ra Nguyễn Văn Thân không nói đến con
đường chiến lược từ Bắc Việt băng qua khu
Bắc Lào sang Thái Lan.

III. Xây Dựng Lực Lượng Chính Quy Bắc Việt

Năm 1956, sau khi việc chia đôi hai miền Nam Bằc
đã dứt khoát, vấn đề an ninh lãnh thổ tạm ổn
định, Hà Nội bằt đầu bỏ ra nhiều năm xây
dựng quân đội chính quỵ Lực lượng võ trang
của Việt cộng nói chung có ba ngành: lực lượng
chính quy, lực lượng địa phương và dân quân du
kích. Tại mỗi xã ngoài Bằc, lực lượng địa
phương có một xã đội với ban chỉ huy và lực
lượng du kích có từ một trung đội đến một
đại đội tùy theo xã lớn hay nhỏ và tùy theo
tầm quan tro.ng. Tại mỗi huyện có một huyện
đội và ít nhất một đại đội, còn tại mỗi
tỉnh có tỉnh đội và một tiểu đoàn. Ngoài ra
tại các đô thị, thị xã, xí nghiệp còn có các
đơn vị tự vệ giữ an ninh, và có một cán bộ
cấp Đảng uỷ-viên tại mỗi nơi này phụ trách
việc tổ chức, lãnh đạo, huấn luyện các lực
lượng tự vê..

Ở một phần khác ta sẽ nói kỹ về lực lượng
địa phương quân và dân du quân kích trong vai trò
giữ nhà. Ở đây ta chỉ nói về công trình xây
dựng quân đội chính quy Việt cộng trong kế
hoạch thôn tính Đông Dương, kể từ năm 1956 khi
Phạm Văn Đồng đệ trình lên quốc hội Việt
cộng dự luật "giảm trừ quân bị".

Đạo luật "giảm trừ quân bị" được thông qua
nằm trong chính sách Tổng Biên Chế quân đội
Miền Bằc, và 80.000 quân chính quy giải ngũ gồm
một số lớn thương phế binh, số còn lại quy tụ
các thành phần bị coi là địa chủ, cường hào,
ác bá, tư sản v.v... và được đem vào khai thác
các nông trường "quê hương mới" cùng với một
số lớn các bộ đội tập kết miền Nam (ở
những nông trường riêng).

Những đơn vị Nam Bộ tập kết năm 1954 ra Bằc
được tổ chức thành những sư đoàn mang phiên
hiệu Việt cộng 305, 324, 325, 330, 338 và một số
trung đoàn biệt lập. Như ta đã thấy trong bài
trước, một phần của các sư đoàn này được
chia ra xây dựng và quản trị các nông trường,
phần còn lại có nhiệm vụ giữ an ninh, hoặc
được huấn luyện tại các quân trường như sẽ
được trình bày trong phần dưới đâỵ

Theo đạo luật về "Nghĩa vụ quân sự" của Việt
cộng năm 1960, tất cả các thanh niên từ 18 đến
28 tuổi đều phải nhập ngũ và phục vụ ít nhất
3 năm. Bằt đầu từ đó, Việt cộng xúc tiến
công tác xây dựng quân đội chính quy, mà xuyên
qua các tài liệu về Việt cộng, ta có thể nhận
định thấy hai nét chính yếu:

- Hiện đại hóa quân đội

- Chính trị hóa quân đội

1. Hiện đại hóa quân đội

Hiện đại hóa là khuynh hướng chung của bất cứ
một nhà cầm quyền mới nào chứ không riêng gì
Việt cô.ng. Nhưng việc hiện đại hóa quân đội
của Việt cộng có một số đặc điểm làm nổi
bật những ưu điểm cũng như khuyết điểm của
Hà Nội trong khung cảnh chiến tranh Đông Dương.

Sau khi đã nằm vững được tình hình chính trị
Miền Bằc, Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh Việt
cộng có nhiều vấn đề phải giải quyết liên
quan đến công tác hiện đại hóa quân độị Năm
1956, khi dự tính nuốt trôi miền Nam qua âm mưu
Tổng Tuyển Cử không thành, viễn ảnh xâm chiếm
Miền Nam bằng một cuộc chiến tranh võ trang đã
trở thành một sự lựa chọn chằc chằn. Trong
dự tính xâm lăng Miền Nam, Việt cộng cũng nhìn
thấy khả năng can thiệp của Hoa Kỳ bằng một
lực lượng quân sự hiện đạị

Mặt khác, trong khi rêu rao rằng "không có gì quý
hơn độc lập và tự do", Hồ Chí Minh và đảng
Việt cộng còn nhằm thôn tính Đông Dương và
Thái Lan, một công tác phục vụ cho quan thầy
được mệnh danh là "nghĩa vụ quốc tế".

Quân đội Việt cộng Miền Bằc lúc đó còn mang
tính chất một lực lượng võ trang của một
cuộc chiến tranh du kích, thích hợp với một
cuộc chiến tranh phi quy ước, nhưng thiếu những
đặc tính cần có trong một cuộc viễn chinh quy
ước tại các chiến trường ngoại lai như Kampuchia
và Thái Lan, hoặc trong trường hợp phải đương
đầu với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và lực
lượng yểm trợ của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Cho tới năm 1958, ngay các đơn vị chủ lực của
quân đội Việt cộng còn được trang bị bằng
đủ loại võ khí hỗn tạp của Pháp và Nhật để
lại cùng với võ khí và trang bị của Trung Quốc.
Các sĩ quan và binh lính Việt cộng còn mang quân
phục của thời kháng Pháp.

Ngày 20-6-1958, chính quyền Việt cộng ký nghị
định số 307/TTG chính thức ấn định quân hàm cho
các cấp trong quân đội, và ngày 22 tháng 12, Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng gằn lon cho các cấp
Tướng Miền Bằc. Từ ngày các cấp Tướng Tá
Việt cộng mang lon, báo chí Việt cộng lại mở
một chiến dịch tuyên truyền về sự khác biệt
giữa hệ thống "lon tư bản phản cách mạng" và
hệ thống "quân hàm tiến bộ" của quân đội
nhân dân (bài diễn văn của Nguyễn Chí Thanh đăng
trong báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9-9-1958).

Nhưng vấn đề quan trọng nhất của công tác hiện
đại hóa là vấn đề tổ chức, huấn luyện và
trang bi.. Trên phương diện tổ chức một đạo
quân hiện đại, Việt cộng Miền Bằc phải thành
lập thêm các quân chủng ngoài quân chủng Bộ binh.
Đó là các quân chủng Hải quân, Không quân, và
các binh chủng Pháo binh, Công binh, Truyền tin và
Thiết ky.. Việc thành lập thêm những binh chủng
mới đòi hỏi công tác huấn luyện trong nước
cũng như gửi các thành phần đảng viên trung kiên
hoặc con của các lãnh tụ và cán bộ đầu sỏ đi
học ở các trường quân sự của các nước cộng
sản khác.

Từ năm 1958, Việt cộng thiết lập các trường
huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc mọi quân
binh chủng:

- Trường Bộ binh
- Trường Hải quân Bãi Cháy, Hòn Gay
- Trường Hải quân Hải Phòng
- Trường Hải quân Vinh
- Trường Pháo binh Sơn Tây
- Trường Truyền tin
- Trường Công binh
- Trường sĩ quan Thiết kỵ

Việt cộng đã gửi quân nhân đi các nước cộng
sản để được huấn luyện về không quân,
rađda, tên lửa (hỏa tiễn), hải quân (chủ yếu là
tàu ngầm và phóng ngư lôi), công binh, quân giới,
đặc công v.v.... Đồng thời các chế độ cộng
sản, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, đã trang bị
võ khí hiện đại cho Việt cô.ng. Quan niệm hiện
đại hóa quân đội của Việt cộng bị giằng co
giữa hai khuynh hướng đối nghi.ch. Khuynh hướng
Võ Nguyên Giáp chủ trương sử dụng võ khí hiện
đại, kỹ thuật hiện đạị Vì "chiến tranh nhân
dân" đã lỗi thờị Dĩ nhiên, trong khối cộng
sản chỉ Liên Xô là có khả năng trang bị đầy đủ
võ khí hiện đại cho Việt cô.ng. Đối nghịch
với khuynh hướng Võ Nguyên Giáp là khuynh hướng
Trường Chinh gồm có Trường Chinh, Nguyễn Chí
Thanh và Lê Đức Thọ chủ trương lấy "chiến tranh
nhân dân" để đánh thắng chiến tranh hiện đại
và trong chủ trương "chiến tranh nhân dân", vấn
đề tối quan trọng là lãnh đạo tư tưởng, là
chính trị hóa quân đội, và võ trang một cách dư
thừa bằng võ khí cổ điển. Quan điểm của
Trường Chinh cũng là quan điểm Mao Trạch Đông
đã thằng thế trong Bộ chính trị, vì thế việc
hiện đại hóa quân đội Miền Bằc chỉ được
thực một cách hạn chế. Hậu quả là Việt cộng
nhận tương đối ít võ khí hiện đại của Liên
Xô, mặc dầu tính thành tiền, con số viện trợ
của Liên Xô rất lớn vì vũ khí hiện đại trị
giá caọ Mặt khác Việt cộng nhận được rất
nhiều võ khí cổ điển của Trung Quốc từ súng
lục súng trường tới tiểu liên, trung liên, súng
phòng không 37, phòng không 57, đại bác phòng không
v.v....

Ưu điểm thứ nhất của đường lối hiện đại
hóa quân đội Việt cộng là việc thành lập binh
chủng đặc công, tượng trưng cho quan điểm trang
bị hạn chế võ khí hiện đại nhưng chú trọng
tới chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu chuyên
biệt và tinh nhuê.. Bộ Tư lệnh Đặc công trực
thuộc Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Miền Bằc và
Bộ Tổng Tham Mưụ Ban chỉ huy rường cột là Lữ
đoàn 305 tức là Lữ đoàn Dù được thành lập
từ năm 1958. Nhưng vì binh chủng Dù không đắc
dụng trong cuộc chiến tranh Đông Dương nên bộ
Tổng Tư lệnh Việt cộng đã giải tán và lấy
toàn thể Bộ Tư lệnh Dù lập thành Bộ Tư lệnh
Đặc công, do Đại tá Điều làm Tư Lệnh trưởng
và Thượng tá Đạo làm Chính ủỵ Đặc điểm về
tổ chức là binh chủng này không có cấp trung
đoàn, trung đội và tiểu đội, chỉ có cấp
tiểu đoàn, đại đội, phân đội và thấp nhất
là tổ, gồm từ 3 đến 5 ngườị Từ 4 tới 5
tổ hợp thành một phân đội và 5 phân đội
thành một đại độị Đặc điểm thứ hai là sự
chuyên biệt. Ví dụ Tiểu đoàn 5 chuyên đánh
dưới nước, đánh cầu, đánh tàụ Tiểu đoàn 2
chuyên huấn luyện bổ sung miền Nam. Tiểu đoàn 4
chuyên đánh thành phố....

Ưu điểm của đặc công là lấy chuyên môn đánh
không chuyên môn, lấy ít đánh nhiều, và về
phương diện này, bộ đội đặc công giống các
chiến sĩ biệt kích và các chiến sĩ người nhái
của Việt Nam Cộng Hòa trước đâỵ

Ưu điểm thứ hai của đường lối hiện đại hóa
hạn chế là ngành pháo binh của Việt cô.ng. Pháo
binh đã dùng hỏa lực cực kỳ ồ ạt phối hợp
với việc quan trằc địa hình rất kỹ lưỡng.
Pháo diện địa cũng như pháo phòng không của
Việt cộng đã nằm ưu thế tại miền Bằc cũng
như ở Hạ Làọ Ở Miền Nam, pháo của cộng quân
đã nâng đỡ cho chúng rất nhiều trước ưu thế
trên không, ưu thế lưu động tính, và ưu thế
cơ giới của quân đội Miền Nam và Đồng Minh.

Mặt khác, đường lối hiện đại hóa hạn chế
cũng có một số khuyết điểm. Trước hết, quân
chủng Hải quân, mặc dầu với tàu ngầm, với
phóng ngư lôi hạm, với tên lửa trang bị cho
chiến hạm, đã bị Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đè bẹp
ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh
không tập và Việt cộng đã phải giải tán quân
chủng này, chỉ giữ lại một ít tàu tượng trưng
để tuần tiểụ Toàn bộ sĩ quan và binh sĩ tàu
nổi đều được chuyển sang các quân chủng khác,
phần lớn là bộ binh. Riêng quân số tàu ngầm
được tăng cường thêm. Một khuyết điểm thứ
hai là về không quân. Sau 10 năm chiến tranh, không
quân Việt cộng hầu như đã không có dịp nào
tung hoành trên mặt trận Đông Dương, mà chỉ
quanh quẩn trong nội bộ Việt cộng, hơn nữa,
còn bị đàn áp trước ưu thế của không lực Hoa
Kỳ, suốt trong 3 năm không tập từ 1965 tới 1968,
Việt cộng đã mất 50% không lực trong các cuộc
không chiến cũng như trong các cuộc không tập
của Hoa Kỳ. Khuyết điểm thứ ba là về hoả
tiễn. Từ 1965 tới tháng 1-1967, Việt cộng đã
bằn 1.000 hỏa tiễn SAM mà chỉ hạ 30 máy bay Hoa Kỳ
trị giá 60 triệu Mỹ kim.

Trong khi các loại võ khí thường hạ được 430
máy bay trị giá hơn 1 tỷ Mỹ kim, thì trong suốt
thời gian chiến tranh không tập, Việt cộng đã
bằn hơn 3.500 hỏa tiễn SAM trị giá gần 100 triệu
Mỹ kim mà không đạt được kết quả mong muốn.

2. Chính trị hoá quân đội

Đường lối hiện đại hoá quân đội một cách
hạn chế và khuynh hướng ngả về loại chiến tranh
phi quy ước mà Việt cộng mệnh danh là "chiến
tranh nhân dân" đã đưa đến việc rập khuôn
mẫu tổ chức của Trung Quốc trong công tác "chính
trị hóa" quân độị

Cấp cao nhất của hệ thống chính quyền trong
quân đội Việt cộng là Hội Đồng Tối Cao
Quốc Phòng gồm toàn Ủy viên chính trị bộ và
Trung ương đảng: Chủ tịch: là Chủ tịch Nhà nước

Hồ Chí Minh (chủ tịch đầu tiên)
và là Tôn Đức Thắng (chủ tịch thứ hai).
Phó chủ tịch:
Phạm Văn Đồng (chính trị bộ)
Võ Nguyên Giáp (chính trị bộ)
Ủy viên:
Nguyễn Chí Thanh (chính trị bộ)
Văn Tiến Dũng (chính trị bộ)
Nguyễn Duy Trinh (chính trị bộ)
Trần Quốc Hoàn (chính trị bộ)
Nguyễn Văn Trân (Trung ương đảng bộ)
Chu Văn Tấn (Trung ương đảng bộ)
Song Hào (Trung ương đảng Bộ)

(sơ đồ tổ chức)

Dưới Hội đồng Tối cao Quốc phòng là Bộ
Quốc phòng rồi đến Bộ Tổng Tư lê.nh. Cấp
đảng ủy kiểm soát Bộ Tổng Tư lệnh Miền Bằc
là Tổng Quân ủy Trung ương, gồm một số Tướng
lãnh Việt cộng: Võ Nguyên Giáp (quân hàm Đại
tướng), Song Hào (Trung tướng), Phạm Ngọc Mẫu
(Thiếu tướng) và một số Ủy viên Trung ương
đảng như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng
v.v....

Đường lối chính trị hóa quân đội, theo sơ
đồ, cho thấy mấy đặc điểm chính sau đây:

- Thủ trưởng (chỉ huy) các cấp đơn vị từ Bộ
chỉ huy đến ban chỉ huy đều phải chịu sự lãnh
đạo của đảng. Sự lãnh đạo của đảng đi tới
cấp thấp nhất là một tổ trong một tiểu
độị Đơn vị nhỏ nhất của quân đội là "Tổ
tam tam", gồm 3 người, trong đó tổ trưởng hoặc
phải là một đảng viên, hoặc một thành phần
trung kiên cơ bản. Một tiểu đội có ba ba "Tổ
tam tam".

- Cấp chỉ huy quân đội chịu sự kiểm tra của
cấp đảng ủy đơn vị, ví dụ Sư đoàn Trưởng
chịu sự kiểm tra của Chính ủy sư đoàn là
người chấp hành đường lối đảng thi hành các
Nghị Quyết do đảng đề rạ

- Các chức vụ Chính trị viên hay Chính ủy trong
quân đội đều do Bí thư Đảng ủy, Đảng bộ
cấp đó nằm giữ mà bí thư là nhân vật quan
trọng nhất của Đảng ủy, Đảng bô..

Dĩ nhiên đường lối chính trị hóa quân đội
nói trên cũng được áp dụng cho tất cả các đơn
vị võ trang của Việt cộng ở trong Nam, và đảng
của Việt cộng ở trong Nam mang "ngụy danh" là
Đảng Nhân Dân Cách Mạng để che dấu sự can
thiệp của Việt cô.ng.

Tóm lại, với tổ chức chính trị hóa như trên,
đảng đã nằm chằc quân đội trong tay, đã nhào
nặn cả triệu thanh niên trong một hệ thống "bịt
mằt bằt hào quang giải phóng miền Nam ruột
thịt", đã lừa bịp và thúc đẩy cả triệu thanh
niên miền Bằc chết cho cái ảo vọng đẫm máu
của Các-Mác, Lê-nin.

Cũng theo sơ đồ nói trên, song song với vai trò
kiểm soát và lãnh đạo chính trị của hệ thống
Đảng ủy, Tổng cục Chính trị có nhiệm vụ thi
hành các công tác chính trị qua các Cục Tuyên
huấn, Cục Cán bộ, Cục Tổ chức, Cục Bảo vệ,
Cục Địch vận, Cục Dân vận và Cục Văn hoá.

Chuẩn Bị Xâm Nhập Miền Nam

Đồng thời với công việc xây dựng lực lượng
quân đội Miền Bằc, Việt cộng đã bí mật
huấn luyện cán binh để âm thầm xâm nhập miền
Nam, thành lập khung cho lực lượng cộng quân ở
miền Nam mệnh danh là "Lực lượng võ trang giải
phóng miền Nam". Các cán binh Việt cộng ở miền
Nam tập kết ra Bằc được huấn luyện tại các
trung tâm sau đây:

- Trung tâm Mạch Lũng ở làng Mạch Lũng, huyện
Đông Anh, tỉnh Hải Dương.

- Trung tâm Xuân Mai, tỉnh Hòa Bình.

- Trung tâm Sơn Tâỵ

- Trung tâm Phú Yên, tỉnh Bằc-Thái (Băc Ka.n-Thái
Nguyên)

- Khu vực "Thép" tại Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, huấn
luyện bộ binh, pháo binh, cơ giới, công binh,
thông tin, hóa học.

- Trường đặc công, núi Na-Sơn, tỉnh Sơn Tâỵ

- Trường đặc công xã Đông Yên, huyện Quốc
Oai, tỉnh Sơn Tâỵ

Các cán binh thuộc Sư đoàn Nam Bộ tập kết 324
là những cán binh xâm nhập trong đợt đầu tiên
vào năm 1960, và được bí mật huấn luyện tại
một doanh trại của bản doanh Sư đoàn 338 của Tô
Ký.

Riêng trung tâm Xuân Mai có khả năng huấn luyện
mỗi đợt 1.000 ngườị

Tổng Kết
Tags: ccrđtạimiềnbắcphần9-10-11(kết)
Sunday March 29, 2009 - 08:36pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
HÀNG NGÀN CÔNG - NHÂN CHINA SANG VIỆT - NAM
HÀNG NGÀN CÔNG - NHÂN CHINA SANG VIỆT - NAM magnify
Tin Quốc Nội
29/03/2009
Hàng ngàn công nhân Trung quốc được đưa sang Việt Nam



Các phụ nữ đẩy chiếc xe chở đầy trái cây nhập cảng đường bộ từ Trung Quốc ở khu vực cửa khẩu Tân Thanh tĩnh Lạng Sơn. Tỉnh này từng bị quân Trung Quốc tàn phá phần lớn khi đem quân sang “dạy một bài học” cho đảng CSVN năm 1979 nay là một cửa ngõ buôn bán hai chiều quan trọng (cả chính thức lẫn hàng lậu) giữa hai nước. Bây giờ, ngoài chuyện hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, các công ty Trung Quốc cũng đưa hàng ngàn công nhân sang Việt Nam trong khi Việt Nam cũng đang điêu đứng với nạn thất nghiệp ngày một nặng hơn. (Hình: Hoàng Ðình Nam/AFP/Getty Images)

HÀ NỘI (TH) - Hàng ngàn công nhân từ Trung Quốc được dùng để thực hiện các dự án xây dựng quan trọng tại Việt Nam trong khi Việt Nam đang đối diện với tình trạng thất nghiệp ngày một nặng hơn, một số viên chức nhà nước nhìn nhận như vậy.

Việc Trung Quốc đưa một số lượng khá lớn nhân công sang Việt Nam dù Việt Nam cũng quá nhiều người thất nghiệp và cần việc làm cho thấy ảnh hưởng chính trị và sức mạnh của Bắc Kinh đè nặng lên đảng và nhà nước CSVN hiện nay như thế nào.

Các bản thông cáo chung, các bản tin của hai hãng thông tấn chính thức của Hà Nội và Bắc Kinh đưa ra mỗi khi có cuộc thăm viếng chính thức lẫn nhau của lãnh tụ hai nước đều luôn luôn nói “nâng lên tầm cao mới” cho mối quan hệ song phương và mọi hợp tác, giải quyết các vấn đề đều phải “cùng có lợi.”



“Các nhà thầu Trung Quốc đã thắng thầu nhiều dự án quan trọng trong các lãnh vực điện, xi măng, xây dựng và hóa học... và họ gửi sang Việt Nam hàng ngàn công nhân cùng với trang thiết bị.” Trần Ngọc Hùng, chủ tịch Hội Xây Dựng Kiến Trúc Việt Nam nói như vậy trong một cuộc hội thảo.

Ðây là lần đầu tiên người ta thấy có sự xác nhận, tuy không chính thức và không có con số cụ thể, về số lượng công nhân Trung Quốc được đưa sang Việt Nam thực hiện các dự án khác nhau.

Báo Tuổi Trẻ khi tường thuật cuộc hội thảo này kể ra cho thấy một dự án xây dựng trong tỉnh Quảng Ninh đã dùng tới 2,000 công nhân Trung Quốc cũng như sử dụng xi măng Trung Quốc và các nhà máy điện được xây dựng bởi các công ty Trung Quốc.

Tờ Tuổi Trẻ cũng dẫn lời Trần Hồng Mai, một viên chức cao cấp của Bộ Xây Dựng CSVN, nói, “Các nhà thầu Trung Quốc thường thắng thầu” ở Việt Nam. Ông này nói các công ty Trung Quốc nhận được “nhiều hình thức hỗ trợ từ nhà nước Trung Quốc để có thể hạ giá bỏ thầu xuống thấp hơn những nhà thầu khác.”

Mới đây, ông Nguyễn Thành Sơn, một viên chức cao cấp của Tổng Công Ty Than Khoáng Sản (TKV) gửi thư cho Bộ Chính Trị đảng CSVN tố cáo tập đoàn quốc doanh nhiều tai tiếng tham nhũng này đã cố ý hạ thấp tiêu chuẩn và điều kiện thầu để Trung Quốc bỏ giá thầu ở mức không có nhà thầu nào khác có thể cạnh tranh nổi. Thêm nữa, và có thể quan trọng hơn, nhà thầu Trung Quốc mang các loại công nghệ, trang bị lạc hậu bị phế thải ở nước họ sang Việt Nam sử dụng. Ðiều này rất tai hại cho môi trường và tốn nhiều nhân công, không có lợi cho Việt Nam về lâu về dài.



Ông Nguyễn Thành Sơn và các nhà khoa học khác ở Việt Nam đã kịch liệt phản đối việc khai thác quặng bauxite, và tệ hơn nữa, lại để cho Trung Quốc đem công nghệ lạc hậu ở xứ này cùng với hàng ngàn công nhân sang Việt Nam. Tướng Võ Nguyễn Giáp, khi gửi thư cho Nguyễn Tấn Dũng hồi Tháng Giêng vừa qua, đã cáo buộc rằng, theo tin ông nhận được, hàng ngàn công nhân Trung Quốc được lặng lẽ mang sang Việt Nam khai thác bauxite. Chế độ Hà Nội đã bắt đầu kế hoạch khai thác bauxite từ mấy năm qua trong âm thầm, bất chấp qui định những dự án “trọng điểm quốc gia” phải được đem ra Quốc Hội của chế độ thảo luận và chấp thuận hay không.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, phản đối dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên vì cho rằng đây là sự sai lầm chiến lược khi để cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc hiện diện một số người rất lớn ở khu vực “yết hầu” quân sự của Việt Nam.

Tướng Giáp viện dẫn bản khảo cứu hai chục năm trước của khối Camecon (thời còn Liên Xô và khối Cộng Sản Ðông Âu) để khuyến cáo không nên khai thác bauxite.

Cách đây ít ngày, bộ trưởng Bộ Lao Ðộng-Thương Binh-Xã Hội CSVN báo động chỉ nửa năm đầu năm nay có khoảng 300,000 người thất nghiệp và cho cả năm, con số có thể khoảng 400,000. Người ở Việt Nam cần việc trong khi công nhân Trung Quốc được đưa sang Việt Nam ngày một đông đảo hơn.

Báo chí ở Việt Nam nhiều lần kêu ca hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam với giá rẻ hơn vì một số lượng không nhỏ đã được nhập lậu qua các ngả biên giới giữa hai nước. Chỉ riêng trên mặt chính thức, nhập cảng từ Trung Quốc đã cao hơn nhiều lần so với hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc.

(Theo VietBao Online)
Tags: hàngngàncông-nhânchinasangviệt-nam
Sunday March 29, 2009 - 01:33pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
NHỮNG ĐIỀU ÍT BIẾT VỀ VUA QUANG TRUNG -NGUYỄN HUỆ


Những điều ít được biết về Hoàng đế Quang Trung
Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Cụ tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc rời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ, Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiến - một nhà Nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình. Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng Trong thành một nước riêng biệt, sống xa hoa đàng điếm. Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”, nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các con phải gắng sức.

Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan: “Giận phó quốc ra lòng bội thượng; Nên Tây Sơn xuống nghĩa Cần Vương”. Trong sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc xoăn, da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ông “có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của nhà Lê nói rằng: “Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét”. (Hoàng Lê nhất thống chí).

Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: “Chư quân, hãy vì ta giết sạch chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu”. Ông vừa dứt lời, quân lính dạ ran như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời vang lên (Lê Quý kỷ sự).

Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, ba lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng, Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau, đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông là vị Hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và cho lập Viện Sùng chính, sắc phong La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân. Tương truyền trong một bức thư của vua Càn Long xin hai con voi đực đã được huấn luyện thuần thục của nước ta, Hoàng đế Quang Trung đã phê dí dỏm rằng: “Thằng Càn Long nó xin hai con voi; Xem con nào cụt vòi cho nó một con”. Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, ông đã nói làm cho mọi người đều cười ầm: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử xem có tốt không”. Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: “Đáng lẽ trẫm phải ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nặng mà tối tăm nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc trách ban ơn tha tội cho các ngươi”.

Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà Hoàng hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất. Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn”.

Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799). Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua đã có mấy người được vẻ vang như nàng ?”. Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo& Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài, đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...

Nguyễn Tấn Tuấn

Tâm Hiền trích đăng
Tags: nhữngđiềuítbiếtvềvuaquangtrung-nguyễnhuệ
Sunday March 29, 2009 - 01:29pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
THƯ KÊU GỌI TOÀN DÂN CHỐNG DỰ ÁN BOXITE
THƯ KÊU GỌI TOÀN DÂN CHỐNG DỰ ÁN BOXITE magnify

độc tài cộng sản việt nam cho bành trướng trung cộng khai thác bauxite(bôxít) ở tây nguyên là thảm họa của dân tộc việt nam ta

nguyễn bá đăng

kính thưa và gửi tới :

- các nhà dân chủ việt nam trong và ngòai nước .

- tới toàn thể 87 triệu đồng bào vn trong nước và hơn 3 triệu đồng bào ở hải ngoại .

- tới toàn thể các tầng lớp .

- các giới trí thức sinh viên , học sinh .

tới tất cả đồng bào dân oan khiếu kiện , mất nhà , mất đất và mất hết mọi quyền lợi làm người . đã bị đảng , chính quyền và công an , quân đội độc tài cộng sản việt nam cướp mất .

- các tầng lớp trí thức, nông dân , công nhân và kinh doanh , phụ hồ , xe ôm , lái xe , và các nghề khác ....

- tới các phóng viên , hãng truyền thông , đài phát thanh trong và ngoài nước , quốc tế .

- các tổ chức , liên minh , các hội đoàn , vv.....

- tới tất cả trẻ già trai gái cùng nhau lên tiếng phản đối việc khai thác này .

- chúng ta càng im lặng hay lên tiếng yếu ớt , đảng cộng sản việt nam càng lấn tới . vì từ trước tới nay chính quyền cộng sản hà nội liên tục làm tay sai , chư hầu cho liên xô và trung cộng . giờ đây thành trì liên xô và các nước cs đông âu xhcn đã tan dã sụp đổ vì nhân dân các nước đó , đã chán ghét và đứng lên lật đổ chế độ xhcn từ lâu rồi . hiện nay chỉ còn một số nước cộng sản độc tài phát xít như ; trung cộng , việt nam , cu ba và bắc triều tiên . bành trướng trung quốc còn lại . trung nam hải đã nhìn nhận và coi cộng sản hà nội là nước đàn em chư hầu , cho lên bọn bành trướng bắc kinh đã thay đổi tiến hành nam tiến bao gồm các nước khu vực đông nam châu á , trong đó có cộng sản việt nam .

còn về phía cộng sản việt nam , do bộ chính trị lộng quyền , đã áp đặt các đường lối chính sách thấp kém , lạc lõng trong cộng đồng , đã đưa đất nước việt nam tụt hậu về mọi mặt .làm cho đời sống nhân dân việt nam ta nghèo nàn khổ cực , bất công đầy rẫy .

vì những lý do đó mà cộng sản hà nội đã bằng mọi thủ đọan lừa dối nhân dân việt nam ta . và đã đớn hèn , dã tâm cúi đầu làm tay sai cho trung cộng , lần lượt các lãnh đạo và đảng cộng sản việt nam đã đem tiền đồ và tài nguyên khóang sản , đất đai , biển cả , quần đảo biên giới dâng hiến cộng sản trung quốc . rồi nay lại dâng hiến tây nguyên cho tầu cộng , bằng cách đảng , chính phủ cộng sản việt nam đã đồng ý cho trung cộng vào đắc nông ở tây nguyên việt nam khai thác mỏ quặng bauxite (bôxít) . mà hậu quả thì bất lợi khôn lường . nó làm cho việt nam thiệt hại , và cs trung quốc lợi dụng lấy cớ đem quân , đem mọi phương tiện và người tầu vào ở tận nội địa của đất nước việt nam ta .

như khai thác khai thác mỏ quặng bauxite (bôxít) để lấy nhôm . mà chỉ thấy ô nhiễm môi trường thì nhiều và nguy hiểm , nhôm thì rất ít ;

1/ cộng sản trung quốc sẽ đem mọi thứ như : quân trang , quân dụng , vũ khí và lực lượng hậu cần vào tây nguyên .

2/ bành trướng trung quốc cộng sản ồ ạt cho người của họ tràn vào , đây là điều bất lợi cho đất nước việt nam ta .

3/ để tầu cộng có một địa bàn rất rộng lớn .

4/ trung quốc sẽ thu nhiều lợi nhuận khác , và để lại cho việt nam bị ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trước mắt và về sau này .

5/ là người dân bị mất đất đai canh tác , dẫn tới cuộc sống đã khó khăn lại càng khó khăn nghèo khổ , không có công ăn việc làm .

6/ mục đích là đảng , chính quyền cộng sản việt nam tiêu diệt các sắc tộc tây nguyên .

7/ đất nước ta lại phải trả giá quá đắt khi mà một khối lượng độc tố , được lôi lên từ lòng đất , mà những người khai thác lại là những công ty của việt nam giả danh và trung quốc rất kém, cỏi không đủ trình độ để mà chế biến nó .

8/ lòng dân và rất nhiều người không đồng tình , phản đối việc đảng , chính phủ độc tài cộng sản việt nam cho trung cộng khai thác mỏ quyặng bauxite (bôxít) ở tây nguyên . trong đó phải kể đến trí thức , học sinh , sinh viên , giới khoa học , các cựu chiến binh , nông dân , công nhân vv.... nhưng chưa đủ mạnh để buộc nhà cầm quyền cộng sản việt nam phải ngưng ngay khai thác , khi nào tự mình đủ sức và trình độ mới tiến hành làm việc này , mà phải được thông qua , đồng ý của nhân dân , không rất nguy hiểm cho đất nước .

9/ các nhà dân chủ kêu gọi toàn dân ta , mọi tầng lớp , trí thức sinh viên , nông dân , công nhân , dân oan và mọi người gái trai trẻ già , cùng nhau lên tiếng , cùng nhau xuống đường biểu tình ôn hòa , buộc nhà cầm quyền độc tài tham nhũng cộng sản việt nam và chính phủ cs phải ngưng ngay không cho cộng sản trung quốc vào tây nguyên , khai thác mỏ quặng bauxite (bôxít) , và phải từ bỏ độc quyền , trả lại mọi quyền tự do dân chủ , cho nhân dân , cho đất nước .

10/ chúng tôi kêu gọi mọi tầng lớp , người dân tây nguyên hãy đứng lên biểu tình phản đối đảng , chính quyền cộng sản việt nam , phải chấm dứt ngay không khai thác mỏ quyặng bauxite (bôxít) ở tây nguyên . đồng thời không cho trung quốc cộng sản vào tây nguyên lợi dụng khai thác mỏ quyặng bauxite (bôxít) , để âm mưu bành trướng xâm lược việt nam .

với những việc làm thiết thực trên đây tòan dân , mọi tầng lớp nhân dân việt nam , hãy cùng nhau , đòan kết nhau lại , để biểu tình phản đối nhà cầm quyền cộng sản việt nam độc tài tham nhũng thối nát , đã hèn nhát bán nước của tổ tiên ông cha ta để lại . có như vậy thì mới đưa đất nước ta phát triển hùng cường giầu mạnh và dân chủ phát triển , mọi quyền lợi của mọi người được đảm bảo và sung xướng .

hải dương , việt nam ngày 14 tháng 3 năm 2009

người soạn thảo

nhà dân chủ nông dân

nguyễn bá đăng

địa chỉ : đội 5 - thôn mạn đê - xã nam trung -- huyện nam sách - tp hải dương - việt nam

đt : 03203756845 -- dd : 0976265014

email : nguyenbadang2007@gmail.com

chúng tôi kêu gọi mọi người toàn dân , dân oan khiếu kiện , học sinh sinh viên , giới trí thức , khoa học và công nhân , nông dân , các nhà dân chủ , thợ thuyền , lái xe , xe ôm , thợ hồ vv..... cùng nhau vào ngày 15 (dương lịch) , hàng tháng xuống đường , tập trung ở các công viên lớn ở các tỉnh , tp lớn , để biểu tình ôn hòa đòi mọi quyền lợi , đòi đất đòi biển , mà cộng sản việt nam bán cho tầu cộng . hy vọng trời sẽ ủng hộ chúng ta thắng lợi to lớn ..

Tags:

* Nguyễn Bá Đăng