Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2009

bài lưu trữ bên blog giỡn mặt " chính quyền f 9

Đội Quân Thứ Năm Của Trung Cộng ( vi anh )
Đội Quân Thứ Năm Của Trung Cộng ( vi anh ) magnify

04/04/2009
Đội Quân Thứ Năm Của Trung Cộng
Vi Anh
-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-
Trước âm mưu và hành động của Trung Cộng đang bành trướng và Hán hoá VN, bước ngoặc lớn là cắt VN bằng con đường chiến lược từ biễn lên Tây Nguyên trong việc đưa người qua khai thác quặng bauxite ở Cao Nguyên VN, một số vị trong Phật Giáo Hoà Hảo nhắc lại Sấm Giảng của Đức Hùynh Giáo Chủ:

"Bắc kỳ sau hóa ruộng sâu,
Tàu man đến đó giăng câu đặt lờ.
Sàigon, Gia định ai ngờ.
Nước đâu mà chảy lở bờ, lướt cây."

Hoà Thương Quảng Đô, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống Kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt mới đây cũng báo động: "Một vấn đề trầm trọng khủng khiếp khác là nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt - Lào - Việt Nam. Việc nhà thầu Trung quốc khai thác quặng bô-xít đã bắt đầu, những làng người Hoa vừa dựng lên ở Tây nguyên, khoảng năm, mười nghìn người Trung quốc sẽ tới: Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn.”

Công nhân Trung cộng tại Tây Nguyên

Bên cạnh tai họa sinh thái, môi trường, người dân Việt lo lắng cả binh đoàn công nhân TC trở thành đội quân thứ năm, con ngựa thành Troja khi có biến động giữa VN và TC. Hay trở thành một thứ Ba Tàu Chợ lớn ở Cao Nguyên qua việc công nhân TC toàn đàn ông ăn ở với phụ nữ Việt sanh con đẻ cái, biến Cao Nguyên thành một China Town của TC ngay trong lòng nước VN.

Thực vậy, trong lịch sử cận đại đồng bào ở Miền Bắc CS đã thấm thía việc TC đưa người vào trùng tu đường tiếp viện cho CS Hà nội, dẫn đến nỗi căm hờn mất Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và nhiều xã thôn, thị trấn ven biên giới Việt Nam và Trung Hoa.

Đồng bào Miền Nam tự do đã thấm thiá cảnh mấy đại xì thẩu ở Quận 5 bất cứ lúc nào cũng có thể tăng hay hạ giá gạo, đường, sắt thép, xi măng. Công khai tổ chức dạy tiếng Hoa như chuyển ngữ ở các trường Việt Tú, Minh Đạo, lại còn mời giáo sư Tàu qua chấm thi Tú Tài Tàu mà họ gọi là Cao Trung. Tệ hơn nữa có khi đại xì thẩu nói thẳng với ông Quận Trưởng Quận 5 liêm khiết muốn đi hay ở là tùy ông Quận Trưởng biết phải quấy với chuyện làm ăn [dĩ nhiên bất hợp pháp] của mấy đại xì thẩu. Người Hoa đa số bản chất hiền lành, là cộng đồng di dân đã đóng góp nhiều vào việc xây dựng Miền Tây và Miền Nam. Nhưng vẫn có một thiểu số đáng ngại, đặc biệt là nếu có ai liên hệ tới tình báo Bắc Kinh.

Công nhân Trung cộng tại Tây Nguyên

Thiết nghĩ yếu tố Trung Quốc, nỗi lo bị Hán hoá, nỗi sợ đội quân thứ năm, con ngựa thành Troja của TC " bố trí" ở cao điểm nước VN, là nguyên do chánh để đồng bào vô cùng quan tâm, lo lắng (tiếng CS gọi là bức xúc) và tìm đủ mọi cách để chống đối. Tướng già 97 tuổi, đã hồi hưu, bị cho ra rìa rất lâu rồi, là Tướng Võ nguyên Giáp là người đầu lên tiếng chống. Ông nói rõ hành lang lên Tây Nguyên là con đường chiến lược lịch sử ngoại bang dùng để xâm chiếm VN từ biển.

Thử tưởng tượng trong trường hợp biến động, như khi người dân Việt biểu tình bạo động chống TC, Bắc Kinh viện lý do bão vệ kiều dân là số công nhân TC đưa vào khai thác bauxite ở Cao Nguyên, TC đưa tàu chiến và đổ quân; hay khi công nhân TC hô hoán bị "ô nàm nán" tấn công, mở đường máu tiến ra biển nói là để thoát thân; thì việc gì sẽ xảy ra. TC sẽ kiểm soát một hành lang chiến lược cắt đôi đất nước VN từ Cao Nguyên ra bờ biển Nam Hải mà TC coi là biển Nam Trung Quốc. Thì ôi thôi! Dân tộc VN Nam Bắc một nhà vĩnh viễn chia lìa; quốc gia VN thống nhứt vĩnh viễn đôi bờ xa cách.

Công nhân Trung cộng tại Tây Nguyên

TC cứ cù cưa cù nhằn, kéo dài tình trạng ấy, viện cả trăm lý do để chậm trễ. Quốc tế cũng không can thiệp được vì TC đâu có đem quân xâm lăng, chỉ để bảo vệ kiều dân, tổ chức di tản thôi. Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng. Còn lâu Mỹ mới nhảy vào vì quyền lợi của Mỹ đối với TC lớn hơn đối với VN. Còn lâu Hội Đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mới ra được một quyết nghị can thiệp với lá phiếu phủ quyết của TC.

Có người nói CS Hà nội đi với TC thì mất đất, đi với Mỹ thì mất đảng. Nhưng còn một đường nữa. Đó là CS Hà nội thần phục TC để làm thái thú để vinh thân phì da. CS Hà nội bây giờ đâu có thiết tha gì đến đất và đảng. Cái mà CS Hà nội thiết tha bây giờ là bám quyền hành để "thu vén cuối đời". Đảng CS VN đã mất đảng tính lâu rồi, chỉ còn là một tổ chức làm bung xung để độc tài, đảng trị toàn diện trên nhân dân. Đất VN, người dân VN, CS Hà nội coi là địa bàn để thực dân, thần dân để khai thác, là thuộc địa, chớ đâu phải là "Tổ Quốc, Đồng bào". Chính Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đã "hiệp thương" với Bắc Kinh cho TC vào khai thác ở Cao Nguyên, còn cho công nhân TC vào nữa. Chính Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đã hô hào đây là chính sách lớn của Đảng trước làn sóng chống đối của ngưòi dân Việt.

Công nhân Trung cộng tại Tây Nguyên

Miễn TC cho CS Hà nội làm thái thú là CS Hà nội " hồ hởi, phần khởi" lắm rồi. TC cũng đâu có dại gì đưa người Tàu qua cai trị, bị mang tiếng thực dân kiểu cũ, cứ để CS Hà nội thần phục làm thái thú, quan tỉnh, quan quận, quan huyện, theo kiểu thực dân mới, ít mang tiếng, mang tai hơn.

Cái gì lợi cho cho CS Hà nội, giúp cho họ bám được quyền hành họ sẽ "đồng tình, nhất trí" ngay. CS Hà nội phải dựa vào TC vì CS Hà nội biết không còn người dân VN nào tín nhiệm họ nữa. Dựa vào TC một phần cũng do thói quen thần phục TC từ khi lập Đảng. Phe thân TC và phe của TC lúc nào cũng có trong Đảng CSVN, và bắt đầu đóng vai trò trội yếu từ khi Liên xô sụp đổ.

Nhưng đất nước VN muôn đời là của người dân Việt. Triều đại và chế độ nào đi nữa rồi cũng đi qua. Không có ai sáng suốt hơn "quần chúng nhân dân". Chính CS cũng phải thừa nhận, qua từ ngữ " mắt dân như mắt khóm". Phong trào nhân dân chống CS Hà nội để cho TC khai thác mỏ bauxite ở Cao Nguyên bùng lên đúng thời cơ, địa lợi và nhân hoà. TC đã lấy đảo Hoàng sa, Trường sa lập thành huyện Tam sa của TC. CS Hà nội trước áp lực và bất mãn của người dân, bí quá phải măc thị cho xì áp lực bất mãn từ phía người dân. Để cho tờ báo Du Lịch nhắc đến sinh viên VN chống TC chiếm Hoàng sa và Trường sa. Cho binh chủng Hải Quân kết hợp với Thường Trực mặt Trận Tổ Quốc Trung Ương hội thảo về chủ quyền lãnh hải, và cho báo Lao Động đăng tải. Đối với các người có học, cho mở cuộc hội thảo về chủ quyền VN trên Biển Đông và Hải Đảo. Phát ngôn viên Lê Dũng lên tiếng chống lại quyết nghị của Quốc Hội Phi luật Tân xác nhận chủ quyền trên một số đảo. Điều đáng chú ý là CS Hà nội không hề đá động một chữ nào đến TC dù đã lấy hai đảo Hoàng sa và Trường sa rồi. Đảng CS Hà nội chỉ mặc thị để cho cơ quan ngoại vi lên tiếng, chớ Đảng CS thì không hở môi. Dễ hiểu, Đảng CS im lặng thủ lợi cho Đảng. Nếu TC phản ứng thì CS đổ thừa và ra tay dập tắt để "lập công dâng lên" Anh Cả Đỏ.

VI ANH

Công nhân Trung cộng tại Tây Nguyên
Công nhân Trung cộng tại Tây Nguyên
Cập nhật ( 04/04/2009 )

nguồn : http://thangtien.de/index
Tags: độiquânthứ nămcủatrungcộng(vianh)
Saturday April 4, 2009 - 06:02am (PDT) Permanent Link | 0 Comments
Mười nguyên nhân và lý do cần phải chống cộng:


VIỆT - NAM MUÔN NĂM

TRƯỜNG SA , HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT - NAM
-*-*-*-*-*-*-*-*-*
ĐẢ ĐẢO TRUNG - CỘNG LẤN ĐẤT DÀNH BIỂN CỦA VIỆT - NAM
ĐẢ ĐẢO BÈ LŨ BA ĐÌNH BÁN NƯỚC CHO TÀU
PHẢN BỘI DÂN TỘC VIỆT - NAM

Mười nguyên nhân và lý do cần phải chống cộng:


1. Chống cộng là hình thức yêu chuộng Công lý và hòa bình.

2. Chống cộng là hình thức cổ võ một nền thể chế chính trị dân chủ đa nguyên pháp trị, phi cộng sản.

3. Chống công là chống bất công, yêu lẽ phải sự thật.

4. Chống cộng là đòi hỏi sự tôn trọng quyền tự do và nhân phẩm con

người. Chống cộng là yêu nhân vị con người.

5. Chống cộng là xóa đói giảm nghèo.

6. Chống cộng là xây dựng một quốc gia giầu sáng, phú cường hùng mạnh, công bằng bác ái.

7. Chống cộng là yêu mến sự tốt lành và lánh xa sự gian manh gian tà, gian ác.

8. Chống cộng là yêu thật thà, ghét gian dối điêu ngoa.

9. Chống cộng là chống thể chế độc tài đảng trị, đảng Cộng sản Việt Nam, không đơn thuần chỉ là đảng cướp, song, còn là đảng phá hoại.

10. Chống cộng là chống những kẻ phản bội tổ quốc, những kẻ bán đất dâng biển hại dân…

__Rất xin lỗi tác giả vì ông bạn " trời ơi " không gởi nguồn sẽ tìm và edit sau .


Friday April 3, 2009 - 11:23pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
Chuyện không thể không nói



VIỆT - NAM MUÔN NĂM
TRƯỜNG SA , HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT - NAM

ĐẢ ĐẢO BỌN BÀNH TRƯỚNG BẮC KINH

-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*
[ Vụn vặt chuyện đời ]
CHUYỆN PHẢI VIẾT
. thụyvi
Your browser may not support display of this image.



Nhà văn Alexandre Solzenitsym: ‘ Khi thấy thằng cộng sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo, nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo, nếu ta không can đảm bỏ đi, ta phải ngồi lại, ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác”

Hôm qua, đọc báo biết tin nhà văn Alexandre Solzhennitsyn qua đời, tôi buồn vì tiếc cho thế giới mất đi một nhà văn kiệt xuất, ngoài ra, tôi bồi hồi thương cảm cho số phận của đất nước tôi vô cùng.

Đất nước của tôi còn bất hạnh, có lẽ bởi vì số đông những người Việt Nam lưu vong trên những xứ sở tự do, sống bằng cây bút, sống với văn học nghệ thuật còn thiếu một nhân cách can đảm như ông Alexandre Solzhennitsyn, một nhân cách bất chấp mọi nguy hiểm để nói lên sự thật, nói lên cái sai trái, cái độc tài, cái giảo quyệt của chế độ Cộng sản. Một nhân cách bất chấp mọi quyền lực bè phái dám bất bình vạch trần sự thật trước dư luận về một số người lưu vong hèn hạ vô ơn cái chính thể đã nuôi dưỡng họ được sống còn cho đến ngày hôm nay. Một nhân cách biết đau xót trước những khủng bố tù đày của những người đấu tranh không mệt mỏi cho một Việt Nam tự do dân chủ nhân quyền.

Trước năm 1975, ông Mai Thảo, một trong những nhà văn lớn trên đất nước tôi, một người suốt đời sống bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa của ông sặc mùi rượu mạnh đêm đêm phòng trà, chữ nghĩa của ông trau chuốt óng ả sống thời thượng nhảy đầm trên những xác chết của vô số người lính ngoài mặt trận.

Nữa đời còn lại, ông tiếp tục sống ngất ngưởng phong lưu tị nạn, chữ nghĩa của ông bây giờ nói lên khát vọng tự tôn: “ Ta thấy hình ta những miếu đền …. Đời ta sử chép cả nghìn chương…” Đọc những lời thơ thần thánh hóa một cách bệnh hoạn của một nhà văn già một đời nát rượu, tôi thấy thương ông, tôi tôn trọng những những gì gọi là văn học, nhưng ca tụng những dòng thơ huyễn tưởng của ông thì không, thế mà một số người lưu vong sống bằng chữ nghĩa họ lãng quên rồi những người Việt Nam Cộng Hòa anh hùng chết thật anh hùng cho đất nước, họ dấy động chữ nghĩa tâng bốc thơ ông là những dòng trác tuyệt, ông là bậc vĩ nhân, ông là cây đại thụ, là Nguyễn Du thời đại… Tôi ngán ngẫm vô cùng, mường tượng thấy trước mắt mình đang diễn lại hoạt cảnh điếu đóm tôn tụng, tự chia nhau chiếu trên chiếu dưới, tự phong mỗi người thống lảnh mỗi cõi Thái Sơn Bắc Đẩu như ngày xưa ở văn đàn nước tôi.

Có người cho ông Trịnh Công Sơn dùng chữ dễ dàng như lấy từ trong túi áo. Vâng đúng vậy, không ai phủ nhận điều này. Chữ nghĩa của ông đẹp lắm, vì những chữ nghĩa đó được cưu mang được thấm đẫm bởi máu và mồ hôi của hàng triệu người đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước để bảo vệ hai chữ Tự Do. Sau năm 1975, ông sống hèn hơn tôi tưởng, chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp xác người trôi dạt khắp biển Đông. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp những trại tập trung cải tạo. Chữ nghĩa đẹp của ông sợ hãi ngó lơ trước hàng hàng lớp lớp những thân phận tù đày khổ sai trên khắp cùng rừng núi. Mỗi ngày ông TCS nhâm nhi rượu Tây rượu Mỹ, ông đem những chữ nghĩa đẹp của ông để ngất ngây say đắm ca ngợi cái xã hội ông đang sống mà mỗi ngày chung quanh ông có hàng triệu người đói cơm thiếu mặc. Ông đem những chữ nghĩa đẹp của ông để thiết tha ca tụng cái xã hội ông đang sống mà mỗi ngày chung quanh ông có hàng triệu người bị đòn thù bách hại.

Ông chết. bạn bè ông trong nước, người nặn tượng, kẻ vẽ tranh, sùng bái ông [ tôi cũng vẽ một bức, vẽ chính con người của ông - mặt mày lơ láo, tóc tai dựng đứng. Bức vẽ này tôi gởi về địa chỉ nhà ông ].

Your browser may not support display of this image. Nực cười thay, tại hải ngoại, một số cây bút mà ngày trước họ đã sợ hải trốn chạy chế độ phi nhân phi lý phi pháp qua đây sống kiếp lưu vong, nghe ông TCS chết, họ vội vã dấy động chữ nghĩa khóc ông…!? [ tôi nghe ra, những lời thống thiết trơ trẽn đó có khác gì với cái trơ trẽn của Tố Hữu khóc Stalin ]. Nước mắt tôi không đổ cho loại người như ông TCS, loại người có tấm lòng chỉ để… gió thổi bay đi. Không bao giờ.

Your browser may not support display of this image. Tài hoa, họa sỉ bậc thầy mà sống vô hậu như các ông Đinh Cường và ông Trịnh Cung… Ngày xưa, các ông ấy cùng với bọn Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường thâm giao vô cùng trên mấy ngàn xác chết của dân Huế bị bọn Việt Cộng sát hại [ hình[1] Ngày nay, các ông ấy tiếp tục thản nhiên đàn đúm, làm ngơ trước những dòng nước mắt và trên những giải khăn tang của vô số đồng bào. Các ông ấy tiếp tục làm ngơ trước những nỗi gieo neo tận cùng nghèo khổ của hàng triệu dân lành, họ nghèo khổ tới nỗi những thanh niên thiếu nử phải chấp nhận bán đi nhân phẩm của mình cho bọn cầm quyền để được đem qua những xứ sở lân cận để làm những nghề thật tủi nhục [ hình[2] 167 cô gái quê VN đang chờ đàn ông Nam Hàn tới lột truồng săm soi, để mua đem về nước ][hình [3] tuổi thơ các em là chích choát ngoài đường ] Các ông ấy thinh lặng trước một xả hội suy đồi đạo đức một cách ghê sợ mà lịch sử nước nhà trước đây chưa hề xảy ra. Các ông thinh lặng trước một xả hội đầy rẫy bất công trong một chế độ độc tài tham nhũng thối nát giàu nghèo vô cùng chYour browser may not support display of this image.ênh lệch

và biết bao tội ác thì có khác gì với đồng lõa. Các ông ơi, chiêm ngưởng những ngòi bút cây cọ thui chột của các ông ? Không có tôi.

Đất nước Việt Nam của chúng ta. Một giải đất thật nhỏ bé thật thân thương mà các tiền nhân, những vị anh hùng của chúng ta suốt mấy ngàn năm nay đã đổ biết bao xương da máu thịt trong lửa đạn để bảo vệ giữ gìn. Giờ đây bọn CS Việt Nam cắt từng miếng đất, dâng từng hòn đảo cho ngoại bang. Sơn hà đang lâm nguy. Nước nhà đang nguy biến. Những người sống bằng chữ nghĩa lưu vong trên những mảnh đất tự do đâu hả? Họ sợ gì sao không dấy động chữ nghĩa lên chiến đấu bằng ngòi bút của mình ? Dấy động chữ nghĩa lên kêu gọi lương tâm nhân loại. Dấy động chữ nghĩa lên đánh thức lòng yêu nước của người Việt Nam sống khắp nơi trên thế giới ? Chữ nghĩa của họ đâu rồi? Có phải chữ nghĩa của họ bây giờ chỉ dùng để kêu gào cổ súy cỏng rắn vô nhà? Có phải chữ nghĩa của họ bây giờ dùng để khích bác một cách ác độc ngu xuẩn làm thương tổn đến niềm tin về tôn giáo cao cả của mỗi người trong Cộng đồng ? Có phải thái độ sống của họ là một thái độ không làm người tử tế ? Có phải thái độ viết của họ là thái độ thiếu trung thực, gây rối, khiếp nhược, ích kỷ? Tôi ước gì ở hải ngoại này có được thêm vài ông Nguyễn Hữu Nghĩa, vài ông Chu Tất Tiến, vài ông Hoàng Hải Thủy, vài ông Duyên Anh, vài ông Bùi Bảo Trúc, vài ông Trà Lủ, vài ông Hà Thượng Nhân, vài ông Nguyễn Chí Thiện, vài ông Văn Quang, vài ông Đoàn Dự [uy vũ bất năng khuất , dám viết từ trong nước ]v..v… Chắc chắn cộng đồng sẽ bớt những kẻ sống bằng chữ nghĩa, thiếu lòng tự trọng quên bước đi bằng hai chân để được sự ân sủng của bọn Cộng Sản Việt Nam cho phép rao bán thơ văn của mình. Bớt những loại sâu bọ lên làm người còn giấu mặt. Bớt những kẻ vô lại như bọn Phạm Duy như bọn Nguyễn Cao Kỳ…

Trong số các nhà văn nhà thơ, được mấy người có nhân cách đẹp không thèm tiếp Nguyễn Tuân như bà Nhã Ca? Nhưng có rất nhiều người như bà Mộng Tuyết.

Những người Việt Nam lưu vong sống bằng chữ nghĩa nhân cách lương tâm kiệt xuất? Có, nhưng hiếm. Những người lưu vong Việt Nam sống bằng chữ nghĩa lương tâm công chính? Có, ít lắm. Còn lại, một số họ sống cố tình lú lẩn quên rồi những oan nghiệt lầm than do hai chử Cộng sản, hoặc không thể làm bộ si khờ, thì họ sống chúi đầu xuống đất. Có người, họ sống thật khéo, thật bảnh bao mũ ni che tai, sống cả nể, sống phất phơ như loài cỏ dại, tâm tư quan điểm của họ trôi nổi như lục bình. Có số, họ còn tự cho mình là cao cả, là phi chính trị, là đứng trên những thị phi, văn chương thơ phú của họ là châu là ngọc trau chuốt thật tròn trịa đổi màu lấp lánh vái lạy tôn tụng nhau, để tự choàng cho u nhng vòng nguyệt quế thối rữa.

Your browser may not support display of this image.

Tôi mơ ước cái chết của nhà văn Nga vừa qua sẽ đánh động lương tri và sự chân thật của những người Việt Nam lưu vong sống bằng ngòi bút.

. thụyvi

hầm nắng, ngày 8 tháng 8 năm 2008


n
http://anhduong.info/joomla/index.php?option=com_content&task=view&id=3427&Itemid=1
Friday April 3, 2009 - 10:59pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
Luật sư Nguyễn Hữu Thống: Tương lai VN đi về đâu?

việt - nam muôn năm

-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-

Tướng Độc Nhãn Moshe Dayan của Do-Thái tiên đoán "ngày nào Cộng Sản chiếm được Việt Nam thì ngày ấy chế độ Cộng Sản bắt đầu suy thoái". Hai võ khí chiến lược của Cộng Sản là tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố... Kinh nghiệm lịch sử cho biết chế độ Cộng Sản không bị giải thể vì những cuộc tấn công từ bên ngoài. Nó chỉ giải thể khi người dân trong nước không ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa.

Luật sư Nguyễn Hữu Thống:
NHÂN NGÀY TƯỞNG NIỆM CÁC GIÁO SƯ NGUYỄN VĂN BÔNG VÀ NGUYỄN NGỌC HUY

Năm 1953 khi Cộng Sản phát động đấu tố tại Nghệ Tĩnh, một số anh em chúng tôi trong nhóm Quan Điểm đã từ Hà Nội di tản vào Nam để tìm chỗ dung thân và xây dựng môi trường hoạt động.

Lúc này tại Trường Luật và Luật Sư Đoàn Saigon, những thành viên năng động nhất thường có khuynh hướng thiên cộng, như Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Hoàng Quốc Tân, Dương Trung Tín, Âu Trường Thanh, Nguyễn Văn Dưỡng, Nguyễn Văn Diệp v…v…. Thời gian này chúng tôi chỉ giao kết với một số trí thức theo chủ nghĩa dân tộc, như Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thuộc Đảng Đại Việt, và ông Ngô Đình Nhu trong Nhóm Xã Hội Thiên Chúa Giáo.

Ngày 20-7-1954 Hiệp Định Đình Chiến Geneva được ký kết giữa Tướng Henri Delteil, Tư Lệnh Hành Quân thay mặt Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tướng Tạ Quang Bửu thay mặt Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt).

Qua hôm sau, 21-7-1954, Hội Nghị Geneva công bố bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai bên tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc vào tháng 7-1956.

Trước đó 5 năm, Pháp đã trao trả chủ quyền độc lập cho Quốc Gia Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mâu) theo Hiệp Định Elysee ngày 8-3-1949. Một tháng sau, ngày 23-4-1949, chiếu nguyên tắc dân tộc tự quyết, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ Tự Trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.

Từ đó Việt Nam là một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh quân đội Việt Nam sẽ chiến đấu cùng với quân đội Pháp dưới danh nghĩa Quân Đội Liên Hiệp Pháp. Một bộ tham mưu hỗn hợp được thành lập, với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng.

Năm 1954 Quốc Gia Việt Nam tham dự Hội Nghị Geneva cùng với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Ngũ Cường Anh, Mỹ, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc (Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch Hội Nghị).

Điều đáng lưu ý là Hiệp Định Đình Chiến Geneva ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp ước thuần túy quân sự với mục tiêu ngưng bắn hay đình chiến, tương tự như Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 tại Triều Tiên.

Trong khi đó, trái lại, bản Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị ngày 21-7-1954 lại đề cập đến những vấn đề chính trị như tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc.

Tuy nhiên Tuyên Ngôn Sau Cùng không mang chữ ký của bất cứ quốc gia nào tham dự Hội Nghị, kể cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đây chỉ là một bản tuyên ngôn ý định (declaration of intent), không phải là một hiệp ước ngoại giao nên không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực thi hành. Vì là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Đình Chiến Geneva ngày 20-7-1954 chỉ có chữ ký của hai tướng lãnh là Tạ Quang Bửu và Henri Delteil. Nó không đề cập đến những quyết định chính trị như việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất hai miền, cũng giống như Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 tại Triều Tiên.

Hơn nữa Quốc Gia Việt Nam cũng không ký vào
Hiệp Định Đình Chiến Geneva ngày 20-7-1954.
Điều khoản nói về tổ chức tổng tuyển cử 1956 chỉ là do ý định và sự sắp xếp của Pháp và phe Quốc Tế Cộng Sản với Liên Sô, Trung Quốc và Bắc Việt. Sự quy định này đi trái với quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam. Vì, như ai cũng biết, tại các nước cộng sản, không có tự do tuyển cử, và bất cứ cuộc đầu phiếu nào cũng chỉ để thông qua những quyết nghị của Đảng Cộng Sản.

Để chống lại âm mưu thôn tính Miền Nam bằng tổng tuyển cử giả hiệu, Đảng Đại Việt đã cho xuất bản tuần báo Đuốc Việt do giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và ký giả Phạm Thái chủ xướng. Nhóm Quan Điểm chúng tôi cũng công bố lập trường và phổ biến tư tưởng trong tuần báo Quan Điểm do các anh Nghiêm Xuân Hồng và Vũ Khắc Khoan chủ biên, đồng thời với nhật báo Tiếng Miền Nam do anh Nguyễn Phương Thiệp và tôi phụ trách.

Trong chiến dịch này, cùng với giáo sư Vũ Khắc Khoan, tôi đã đi thuyết trình tại các đại học, các trường trung học chuyên nghiệp và chuyên khoa, thu thập chữ ký của các giới trí thức, giáo sư và sinh viên học sinh xác định lập trường phản đối Hiệp Định Geneva 1954 chia đôi đất nước. Đồng thời phản kháng sự “hợp thức hóa Hồ Chí Minh” bằng tổng tuyển cử giả hiệu 1956. Đó là nội dung “Bản Tuyên Ngôn của Hai Ngàn Trí Thức Saigon-Chợ Lớn Chống Hiệp Định Geneve”.

Thất bại trong kế hoạch tổng tuyển cử 1956,
Đảng Cộng Sản phát động chiến tranh võ trang để thôn tính Miền Nam.
Trong thời gian này Quốc Gia Việt Nam đã tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc Hội Lập Hiến. Luật Sư Nguyễn Phương Thiệp giữ chức Tổng Thư Ký Quốc Hội, và đã tích cực tham dự vào việc soạn thảo Hiến Pháp 1956 nhằm thiết lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa (Đệ Nhất Cộng Hòa).

Sau chính biến 1963, Miền Nam bước vào giai đoạn nhiễu nhương với nhân tâm ly tán và xã hội bất ổn.

Năm 1964, trong chương trình tái thiết quốc gia, chúng tôi lại có dịp sinh hoạt với Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thuộc Bộ Bình Định; Luật sư Nghiêm Xuân Hồng và tôi phụ trách Bộ Chiêu Hồi (lúc này là Phủ Đặc Ủy Chiêu Hồi).

Năm 1966, trong chức vụ Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến
Đệ Nhị Cộng Hòa, tôi được Văn Phòng Quốc Hội ủy nhiệm đặc trách
công tác lập hiến (thời hạn soạn thảo và hoàn thành hiến pháp là một năm).
Trong việc tham khảo ý kiến tôi đã tổ chức những buổi “đàm hiến trà” nhằm trao đổi quan điểm với các nhân sĩ, thân hữu và đồng nghiệp về những vấn đề hiến pháp.

Các vị thẩm phán và luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon đã tham gia ý kiến về việc thiết lập chế độ Dân Chủ Pháp Trị với Tư Pháp Độc Lập và Tam Quyền Phân Lập. Bằng những kỹ thuật pháp lý, Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 đã thành lập Viện Bảo Hiến trong Tối Cao Pháp Viện. Mục đích để bảo vệ tinh thần và bản văn hiến pháp, chống mọi lạm quyền của Hành Pháp và Lập Pháp. Từ nay các vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện không còn do Tổng Thống chỉ định từ trên xuống, mà sẽ được bầu từ dưới lên bởi những đoàn thể luật gia thực sự hành nghề như Thẩm Phán Đoàn, Công Tố Đoàn và Luật Sư Đoàn. Phương thức tuyển cử này có thể áp dụng tại các quốc gia dân chủ tân lập như Việt Nam.

Theo châm ngôn Dân Vi Quý, về mặt nhân quyền, Hiến Pháp 1967
đề xướng, tôn trọng và bảo đảm những quyền tự do dân chủ căn bản
của người dân.
Đặc biệt tạo cơ hội hình thành quy chế tự do lập hội về tôn giáo và dân sự, và tự do lập đảng về chính trị. Sau khi công bố chính sách “đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật”, quốc gia có nghĩa vụ khuyến khích và yểm trợ chế độ đa đảng, tiến tới một hệ thống lưỡng đảng trong đó vị lãnh tụ đối lập có quyền hiến định về chất vấn và phát biểu tương đương với quyền tường trình và giải thích của thủ tướng chính phủ trong những buổi sinh hoạt công khai tại nghị trường.

Trong cương vị lãnh đạo một đảng đối lập công khai và hợp pháp,
các Giáo Sư Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy đã đóng góp
nhiều ý kiến về việc hình thành quy chế chính đảng.
Về quyền tự do báo chí, chúng tôi áp dụng chế độ hậu kiểm, dành cho các cơ quan truyền thông quyền tự do thông tin và tự do phát biểu. Điểm đặc biệt là, dầu trong thời chiến, chúng tôi vẫn quyết định bãi bỏ chế độ kiểm duyệt. Nếu có sự lạm quyền và vi phạm luật báo chí, tòa án sẽ truyền tịch thu tài liệu, truy tố và kết án các đương sự phạm pháp.

Với sự ban bố và thực thi nhân quyền và những quyền tự do căn bản, Hiến Pháp 1967 đã thực sự đem lại Chính Nghĩa Dân Chủ cho Việt Nam. Do đó, dầu có chiến tranh xâm lược và tuyên truyền lũng đoạn của phe Quốc Tế Cộng Sản, sinh hoạt xã hội vẫn có sinh khí. Cũng vì vậy từ 1960 Việt Nam đã phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn bất cứ quốc gia nào tại Đông Nam Á, kể cả Đài Loan và Đại Hàn.

Tại miền nông thôn và cao nguyên, sau 2 cuộc cải cách điền địa, mỗi gia đình nông dân được chính phủ cấp phát ruộng đất miễn phí từ 1 đến 3 hecta (khoảng từ 3 đến 10 mẫu ta). Có thể nói, theo tiêu chuẩn Miền Bắc, đến năm 1975, tất cả các nông dân Miền Nam đều trở thành phú nông.

Về mặt quân sự, trong 20 năm chiến đấu, Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đã tỏ ra xứng đáng là một quân đội anh hùng.

Trong cuộc Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân,
Việt Cộng đã thất bại nặng nề về mặt quân sự (tổng công kích).
Theo Chế Lan Viên, cán bộ đặc trách ban Văn Công:
“Mậu Thân, hai ngàn người xuống đồng bằng
Sau một đêm còn sống có 30!”. (Tỷ lệ tổn thất là 98%)
Về mặt chính trị (tổng khởi nghĩa), trong suốt năm 1968, không thấy có cuộc nổi dậy nào của dân chúng Miền Nam. Theo lời viên Thủ Trưởng Định Tường, tới ngày khởi nghĩa sẽ có 50 tổ đồng khởi, nhưng tới ngày đó “chỉ có một tổ của tôi mà thôi, không thấy 49 tổ kia đâu hết!”. (Tỷ lệ sai biệt cũng là 98%)

Về việc này Hồ Chí Minh nhận định: “Nguyên nhân thất bại về chính trị là sự báo cáo chủ quan”.

Trong cuộc Tổng Tấn Công Xuân Hạ mệnh danh là Mùa Hè Đỏ Lửa, từ tháng 4-1972, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đẩy lui 14 sư đoàn chính quy Bắc Việt, dầu rằng lúc này Quân Lực Hoa Kỳ không còn chiến đấu trên bộ nữa. Và số thương vong của các cán binh Bắc Việt đã vượt quá con số 100 ngàn.

Trong cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm Mùa Giáng Sinh 1972 tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận, Bắc Việt đã gần như kiệt quệ. Tin trong nước cho biết, tại Hà Nội, nhà nào cũng may sẵn cờ trắng để nghênh đón các chiến sĩ Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc.

Mặc dầu vậy, chỉ một tháng sau, tháng 1-1973, Hoa Kỳ đã áp lực buộc Việt Nam Cộng Hòa ký Hiệp Định Paris, theo đó Hoa Kỳ và các đồng minh như Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan phải đơn phương rút quân, trong khi quân đội Bắc Việt không phải triệt thoái ra khỏi chiến trường Việt Nam. Đây là một nghịch lý cơ sở của Hiệp Định Paris 1973.

Trước đó, từ 1969, Hoa Kỳ đã mặc nhiên thừa nhận cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trong kế hoạch “3 Nước Việt Nam” do Trung Quốc đưa ra để dối gạt Hoa Kỳ.

Hơn nữa, từ sau Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ đã nhẫn tâm cắt giảm 2/3 số ngân khoản viện trợ cho Việt Nam, trong khi Liên Sô và Trung Quốc đã tăng gấp 4 lần số quân viện cho Bắc Việt.

Tệ hại hơn nữa, Chính Phủ Hoa Kỳ đã không giữ lời cam kết sẽ trả đũa tức thời và mãnh liệt trong trường hợp quân Bắc Việt xâm lấn võ trang trắng trợn vi phạm Hiệp Định Hòa bình Paris.

10 năm sau khi Miền Nam thất thủ, năm 1985 Tổng Thống
Nixon viết cuốn Hồi Ký “No More Vietnams” và tự phán:
“Đây là sự thất bại và phản bội đồng minh
không tiền khoáng hậu trong Lịch Sử Hoa Kỳ”.
Từ hơn 1/4 thế kỷ, năm 1949, sau khi thu hồi chủ quyền độc lập, Việt Nam được công nhận là tiền đồn của Thế Giới Tự Do tại Đông Nam Á. Do sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ và qua những lời cam kết minh thị của 5 vị Tổng Thống kế tiếp là Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson và Nixon.

Sự thất thủ của Việt Nam Công Hòa năm 1975 đã dẫn đến sự suy thoái của Chính Nghĩa Tự Do Dân Chủ trên thế giới, với những hậu quả dây chuyền tại một số quốc gia Á Phi, như A Phú Hãn, Angola, Ethiopia, Iran, Mozambique v…v…

Dầu sao, theo lời tiên đoán của Tướng Độc Nhãn Moshe Dayan, ngày nào
Cộng Sản chiếm được Việt Nam thì ngày ấy chế độ Cộng Sản bắt đầu suy thoái.
Hai võ khí chiến lược của Cộng Sản là tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố.

Sống dưới ách thống trị của Cộng Sản người dân lần lần nhìn rõ bộ mặt tàn bạo của chế độ với đầy đủ 4 khuyết tật là độc tài, tham nhũng, bất công và bất lực.

Kinh nghiệm lịch sử cho biết chế độ cộng sản không bị giải thể vì những cuộc tấn công từ bên ngoài. Nó chỉ giải thể khi người dân trong nước không ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa.

Ngày nay có ít nhất 90% dân chúng Việt Nam đã ý thức bản chất
phi nhân của chế độ Cộng Sản. Vì vậy chẳng chóng thì chầy Cộng Sản sẽ tiêu vong.
Theo ông Ngô Đình Nhu, thời gian Cộng Sản tiêu vong có thể ước lượng là 3 chu kỳ (3 con giáp hay 36 năm). Từ 1975 đến nay đã 34 năm. Và nếu như lời tiên đoán nói trên được chứng nghiệm thì cộng sản chỉ còn sống vất vưởng trong vài ba năm. Tuy nhiên, về phương diện đấu tranh chính trị, không ai dám tin vào những lời tiên đoán. Phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử với những yếu tố về chính nghĩa và ý thức, ý chí và quyết tâm, hy sinh chiến đấu, hậu thuẫn quần chúng, hậu thuẫn quốc tế, trào lưu tiến hóa và vận dụng thời cơ.

Như vậy tương lai chính trị của Việt Nam chủ yếu phải trông vào nội lực của chính người Việt chúng ta. Yếu tố thời vận vẫn cần thiết. Nhưng yếu tố nhân sự có tính quyết định.

Điều cốt yếu là chúng ta phải sáng suốt nhận định thời thế. Đồng thời giữ vững Niềm Tin vào tiền đồ đất nước. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ với thế giới là một dân tộc bất khuất, không chấp nhận sự thống trị của ngoại bang cũng như sự đè nén của kẻ nội thù.

LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỐNG
nguồn : http://tuongvangvn.com/index.php?categoryid=50&p2_articleid=498
Tags: luậtsưnguyễnhữuthống:tươnglaivnđivềđâu?
Friday April 3, 2009 - 09:13pm (PDT) Permanent Link | 1 Comment
Còn Cờ Đỏ Sao Vàng thì không bao giờ có Tự Do
Còn Cờ Đỏ Sao Vàng thì không bao giờ có Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc

Tác giả: Blacky

Ngày đăng: 4/4/2009

Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 , Hồ Chí Minh tuyên bố “độc lập” để rồi hàng năm vào cái ngày tối tăm đó đất nước mình dẫu đói nghèo vẫn phải oằn mình tổ chức “quốc khánh” rình rang tốn không biết bao nhiêu là tiền của , phô diễn cờ hoa rợp trời, quan chức đua nhau đọc diễn văn với các bữa tiệc xa xỉ vô tội vạ , cùng lúc đó thì hàng triệu người khác đang còng lưng trên những cánh đồng cằn cỗi với cái bụng đói meo, tất cả chỉ với một mục đích ca ngợi sự vẽ vang của Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp dành “độc lập” cho dân tộc. Nhưng giờ đây nhân loại đã bước vào kỹ nguyên tin học với tốc độ truyền tải thông tin vô cùng khủng khiếp mà chắc chắn ông Hồ không thể nào tưởng tượng nỗi , người Việt Nam giờ có thể dễ dàng tiếp cận hơn với nhiều “thông tin ngoài luồng”, nhiều anh chị mặt đỏ bừng bừng khi vô tình đi lạc vào một “website phản động” nào đó , một người bạn cũ còn kín đáo gởi tin nhắn vào blog của tôi với nội dung như sau: “lâu rồi mới vô đọc blog của mi, phản động quá, tau không có đủ can đảm để đọc hết bài nữa, lo học đi mi , việc nước đã có nhà nước lo ” .


Và nhiều lần tôi đã cố giải thích cho bạn tôi hiểu rằng thực ra sau mùng 2 tháng 9 năm 45 nước ta không hề có độc lập , đó chỉ đơn giản là việc thay thế Chủ Nghĩa Thực Dân bằng Chủ Nghĩa Cộng Sản , mà chính ông Hồ là tay sai và lá cờ đỏ sao vàng mà ông ta mang về ngang nhiên bay trên bầu trời nước ta từ đó . Bài học năm xưa, lợi dụng người dân ít học ông Hồ đã khéo léo che đậy Chủ nghĩa Cộng Sản bằng cách kích động lòng yêu nước, bao nhiêu triệu người đã bỏ lại tuổi thanh xuân trong cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước “ , chữ “cứu nước” là chữ linh thiêng nhất của Dân Tộc chúng ta vì nó gắn liền với suốt chiều dài lịch sử của Dân Tộc. Vì hai chữ đó người Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả .

Nhưng than ôi , tất cả đã bị lừa và ngày hôm nay vẫn tiếp tục bị lừa . Dân tộc ta đâu thiếu người tài , Phan Bội Châu , Nguyễn Thái Học , Lý Đông A , Huỳnh Phú sổ , ... nhưng chỉ có Hồ Chí Minh là người gặp thời , thời của quỷ , chính xác là thời “quỷ đỏ” lộng hành , với tham vọng nhuộm đỏ cả địa cầu . Chúng ta hãy tưởng tượng xem nếu như ngày hôm nay khắp hoàn vũ này nước nào cũng bị áp bức bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản thì sẽ ra sao ? Xin thưa tất cả hơn 6 tỷ người sẽ sống trong “ thế giới đại đồng “, lúc đó kinh đô ánh sáng Paris sẽ tăm tối như Bắc Hàn, và người dân New York cũng sẽ chèo thuyền đánh cá trên phố giống như Hà Nội của chúng ta . Tất cả sẽ bình đẳng , ai sinh ra cũng đói khổ như nhau , ai cũng mất nhân quyền như nhau , cũng được Đảng nhồi sọ như nhau , sẽ không còn ai ganh tỵ ai , tất cả sẽ không còn đấu tranh, cứ như thế sinh ra làm nô lệ , không chết vì già thì cũng chết vì kiệt sức . Đó là viễn cảnh một trái đất màu hồng của máu và nước mắt .

Chính vì hiểu được hiểm họa đó nên nước Mỹ với vai trò là một siêu cường có trách nhiệm phải đi tiên phong lãnh đạo các nước khác trong việc chặn đứng sự bành trướng của khối Cộng Sản trên thế giới , thế nên việc “ngụy Hồ” kêu gọi “chống Mỹ cứu nước” trên thực chất phải được hiểu đúng đắn là chống Mỹ cứu Chủ Nghĩa Cộng Sản. Chỉ có người dân quê thật thà chất phác là mù quáng tin theo những khẩu hiệu ngụy tạo đó , và có lẽ nếu tôi sinh ra dưới xã hội miền Bắc vào thời đó tôi cũng sẽ yêu nước mù quáng , sẽ cầm súng đi đánh Mỹ , sẽ nuôi giấu cán bộ , sẽ liều chết trong các cuộc xung phong , và nếu không bỏ mạng thì sẽ may mắn được sống cuộc sống ‘hòa bình” với tay cụt , chân cụt , đang ngồi chờ khách bơm xe ở dọc đường , hay về nhà đi cày với mảnh ruộng bé hơn hồi còn chiến tranh , vì hòa bình rồi thì người ta biến nó thành sân gôn hay các khu rì sọt để “sánh vai với các cường quốc năm châu”, rồi đời sống quá khổ, quá oan ức tôi cũng sẽ đi khiếu kiện như bao người khác , tôi sẽ kêu “thủ tướng ơi cứu dân ”, “ quốc hội ơi cứu dân”, đến một lúc kêu hoài chúng nó không nghe thì có khi với bản tính ngông cuồng cộng với việc hết đường sống , tôi lại đánh bom cảm tử cũng nên . . .

Chính vì thế nên tôi muốn nói rằng nếu không có lá cờ đỏ của ông Hồ mang về thì sẽ không có quá nhiều bi kịch trên đất nước như ngày hôm nay , Tất nhiên lịch sử không bao giờ nói nếu .

Và ngày 30 tháng 4 năm 1975 , là ngày mà triệu người vui , triệu người buồn , nhưng triệu người vui kia thì cũng mếu máo không lâu sau đó. Từ đây nửa nước Việt Nam tự do đã chìm vào biết bao nhiêu khổ đau mà kể cho hết . Vết thương lịch sử này ngoài trách nhiệm của người Việt, cũng không thể không nhắc đến việc Mỹ đã phản bội đồng minh , vì cục diện chính trị lúc đó và vì chiến lược lâu dài, Mỹ đã để cho màu đỏ của máu loang lổ trên khắp miền Nam sau khi ký kết hiệp định Paris 1973, hiển nhiên Mỹ không thể thả nổi cho khối Cộng Sản bành trướng sang đến Mỹ nhưng ở một chừng mực nào đó vì lợi ích của nước Mỹ được cân nhắc kỹ càng thì Mỹ sẳn sàng thỏa hiệp với Cộng Sản cho dù thỏa hiệp đó sẽ giết chết hàng triệu người hay cả một dân tộc khác. Gần đây nhất trong bộ phim “Việt Nam Việt Nam “ của đạo diễn John Ford được công bố sau 37 năm bị giấu kín , thượng nghị sĩ Ronald Reagan đã thừa nhận ".. chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ , cái giá phải trả cho loại hòa bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thệ hệ sinh tại Viêt Nam về sau." Mỹ đã thua Cộng Sản trên chiến trường Việt Nam , nhưng trên chiến trường thế giới thì Mỹ đang thắng sau khi một loạt khối Cộng Sản Đông Âu và Nga Xô xụp đổ , đến trong tương lai gần thì Trung Cộng , Bắc Hàn và Việt Cộng cũng sẽ chịu chung số phận với ông tổ của chúng mà thôi .

Biết chắc chắn là Cộng Sản phải đến hồi suy vong nhưng cái hậu quả của nó để lại sau 33 năm hà hiếp dân tộc mới ghê gớm thay , biết bao nhiêu năm nữa mới phục hồi được môi trường sống đang bị phá hoại , bao nhiêu năm nữa mới cải thiện được nòi giống đang ngày một bệnh hoạn , và bao nhiêu năm nữa mới làm sáng lại đạo đức nhân phẩm của người Việt khi ngày một băng hoại . Tôi cảm thấy tiếc nuối vô cùng, tiếc cho cơ hội được sống tự do hạnh phúc của người Việt đã vỡ tan tành , tiếc cho những ai chưa từng và đã từng được “ghé bến sài gòn, là nơi du khách dập dồn từ 5 châu tới viếng thăm thủ đô, dòng sông chen chúc tàu đò , ngựa xe buôn bán hẹn hò , người dân no ấm sống đời tự do”, tự do thì đã mất ,tiếc nuối cũng đã muộn , mong sao con cháu thế hệ sau sẽ khắc cốt ghi tâm bài học của một nước nhược tiểu phải gánh chịu .

Sau mùng 2 tháng 9 năm 1945 , ông Hồ đã đưa đất nước vào con đường khánh kiệt với những cuộc chết chóc triền miên chỉ vì ích kỷ thủ đắc riêng cho cái bản ngã đầy ắp tính man rợ của Quốc Tế Cộng Sản. Ở thời chiến thì người dân chết theo kiểu của thời chiến , nay thời bình thì chết theo kiểu thời bình , ví như giết “cường hào ác bá” trong cuộc cải cách ruộng đất , thảm sát hàng ngàn người dân vô tội ở Huế trong trận Mậu Thân, hay trên đại lộ kinh hoàng Việt Cộng đã hả hê mở một bửa tiệc thịt người khi nả đại pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly vào người dân Quảng Trị đang rồng rắn kéo nhau dài hàng chục kilômét vào Huế để lánh nạn Cộng Sản, còn giờ đây thì người dân mất đất mất ruộng đói mà chết , ra đường sập hố ga hay xe đụng mà chết , ăn uống ngộ độc mà chết , đi làm giấy tờ bị hành lên hành xuống tức mà chết ...v .v..v rất nhiều kiểu chết và cứ ở đâu có Cộng Sản thì ở đó có phi lý, có bất công , có mùi tanh của máu , có xú uế của xác người nên người ta còn gọi cờ đỏ sao vàng với một cái tên dễ nhớ khác : Cờ Máu.

Ngày hôm nay vui mừng lắm khi ngày càng có nhiều người trẻ yêu nước chống Cộng quyết liệt , nhiều người không chống Cộng nhưng cũng yêu nước quyết liệt , nhưng tất cả nên là những người chịu khó tìm hiểu lịch sử trước đã .

Hãy nhìn xem cả thế giới đều rùng mình khi nghe nhắc đến Chủ Nghĩa Cộng Sản , và Quốc Tế Cộng Sản bị toà án quân sự thế giới lên án với tội ác chống lại hòa bình thế giới, tội ác chiến tranh, và tội ác chống lại con người . Những năm gần đây người Trung Quốc tự do đã ra mắt tác phẩm Cửu Bình ( 9 bài bình luận về Đảng Cộng sản Trung Quốc) , tác phẩm đã phơi bày những tội ác những cuộc giết người man rợ mà Trung Cộng đã gây ra và vạch trần bản chất lưu manh tà giáo, phản con người , phản vũ trụ của Chủ Nghĩa Cộng Sản , người đọc sẽ không khỏi kinh hoàng và thương cảm cho dân tộc Trung Hoa luôn vổ ngực xưng hùng xưng bá giờ đây thê thảm đến như vậy , thật là khủng khiếp khi nhận được con số thống kê của thời báo Đại Kỷ Nguyên từ ngày 3 /12/2004 cho tới nay 13/3/2009 chỉ vỏn vẹn 4 năm 3 tháng mà đã đã có 51.193.607 người ký tên ủng hộ việc dẹp bỏ Đảng Cộng Sản ,tính ra trung bình một ngày gần 10 ngàn người thức tỉnh , điều đó như như báo trước cái chết của Chủ Nghĩa Cộng Sản trên đất nước Trung Quốc chỉ còn là vấn đề thời gian . Còn ở Nga từ sau năm 1991 đã thay lá cờ búa liềm bằng lá cờ ba sọc trắng xanh đỏ có từ thời Nga Hoàng , những tượng đài Lênin đã bị tháo bỏ , viện Lênin nay đã đổi tên là Medical Biological Technologies , và nước Nga đã có kế hoạch sẽ mai táng cái xác ướp Lênin vào năm 2010 , trong khi ở Việt nam thì trẻ con cứ thắc mắc rằng “ ông Lênin ở nước Nga , sao ông lại đứng vườn hoa nước mình ...” , tất cả các lĩnh vực nghệ thuật, hội họa , văn thơ , phim ảnh, âm nhạc ... “trăm hoa đua nở” thỏa sức vạch trần tội ác Cộng Sản cho người dân được biết, người ta cũng đã đưa tội ác của chủ nghĩa cộng sản vào chương trình giáo dục học đường và rất nhiều lần trong những tiết học các em bé đã phản đối kịch liệt vì cho rằng làm sao mà con người có thể đối xử với nhau còn tệ hơn cầm thú như thế được ?! Thầy giáo chỉ biết nhăn mặt mỉm cười , đã qua rồi các em yêu mến ! qua rồi “thời đại của những lời nói dối tuyệt vời” .

Tôi nêu lên những điều này vì muốn nói rằng xã hội Việt Nam rồi cũng sẽ phải trãi qua những giai đoạn y như thế , lá cờ vàng ba sọc đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam , quốc ca sẽ không còn “xây xác quân thù”, lăng Hồ Chí Minh sẽ bị phá bỏ , tiền Việt Nam sẽ phải có hình hai bà Trưng , Lý Thường kiệt , Trần Hưng Đạo .v.v.. tất cả 64 tỉnh thành mỗi tỉnh sẽ có một viện bảo tàng tội ác Cộng Sản, cả Dân Tộc sẽ bừng tỉnh , cả Dân tộc sẽ xót xa đau đớn chen lẫn hạnh phúc trước quá nhiều sự thật sẽ được phơi bày , tất cả sẽ phải tiếp tục đấu tranh lâu dài và gam go trước là để lập lại trật tự xã hội , sau là để hoàn thiện dần dần nền dân chủ mà những nước láng giềng như Thái Lan , Singapore, Đài Loan , Nam Hàn , Nhật Bản đã bỏ quá xa rồi .

Càng nhìn lại lịch sử rồi đối chứng với hiện tại thì tôi lại càng căm phẫn tột cùng , khi gần 40 000 người Việt Nam đã hi sinh dưới lá cờ đỏ sao vàng trong cuộc chiến biên giới với Trung Cộng vào những năm 79, để rồi hôm nay vì quy phục quan thầy Bắc Kinh mà những hy sinh mất mát đau thương đó trở thành đề tài cấm kỵ trên tất cả các phương tiện truyền thông trong nước , học sinh thì không được học , sử gia thì không được đào sâu phân tích , nhà văn nhà thơ thì không được tự do xuất bản, ngay đến cả những người đồng đội anh dũng năm xưa , giờ đây cũng chỉ dám “đặt vòng hoa trong tâm tưởng”.

Trong khi đó lại có đến 40 nghĩa trang “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ Trung Quốc” trên đất nước Việt Nam . Tác phẩm Ma Chiến Hữu của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn viết về cuộc chiến biên giới 1979, được phát hành trong nước với lời giới thiệu của nhà xuất bản như ca tụng về chủ nghĩa anh hùng của những người lính Trung Quốc đã xâm lược giết hại người dân Việt Nam . Và gần đây với “Vụ án Bôxít ” Trung Cộng đã âm thầm hủy diệt môi trường sống của người Việt đồng thời ngang nhiên đưa hàng ngàn công nhân chiếm đóng Tây Nguyên và những công nhân đó sẳn sàng cấm súng bất kỳ lúc nào , và tôi dám chắc rằng một ngày rất gần đây thôi chúng ta sẽ được nghe phát ngôn bộ ngoại giao Việt Cộng Lê Dũng hùng hồn lên tiếng “ Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử về chủ quyền của mình đối với TÂY NGUYÊN ”, rồi cũng giống như Hoàng Sa Trường Sa , Vịnh Bắc Bộ , Ải Nam Quan , Thác Bản Giốc mà thôi , việc của báo chí thì cứ lu loa khẳng định chủ quyền , còn việc mất đất mất biển là chuyện quốc gia đại sự nên chỉ một mình Đảng biết Đảng giải quyết .

Nói như thế để thấy rõ bản chất vong nô của Việt Cộng và bản tính bá quyền lưu manh của Trung Cộng , dù chúng nó thân thiết với nhau hay chúng nó quay sang đánh nhau thì chỉ có nước mình nhiễm độc , nước mình mất, dân mình khổ , dân mình chết thôi , chứ nhà nó vẫn to , xe nó vẫn sang , trương mục ngân hàng vẫn kếch xù từ sức lao động của nhân dân , và dù bè lũ chính trị bộ có chạy theo Tàu hay theo Mỹ đi nữa nhưng chắc chắn rằng không có tên nào theo Dân Tộc mình , đối với chúng là nước Tàu hay nước Việt Nam có khác gì nhau , Tố Hữu đã báo trước rồi mà : “bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương” .

Tôi biết nói những điều này với những người đã bị Đảng nhồi sọ quá lâu sẽ bị họ đấu tố là việt gian phản động, họ sẽ dùng những lý lẽ như nhờ ơn “bác” ơn Đảng mà mới có ngày hôm nay độc lập tự do hạnh phúc , nhưng việc tôi sinh ra và lớn lên dưới lá cờ đỏ sao vàng không có nghĩa là nhờ lá cờ đó mà tôi được sống được học tập... , mà đúng ra vì “nó” mà tôi phải mất đi rất nhiều thứ vốn dĩ là quyền cơ bản của một con người . Nói dễ hiểu cũng giống như việc người ta nuôi nhốt những con chim từ lúc nó lọt lòng , khi lớn lên nó sẽ quanh quẩn với cái lồng , sống với “tư tưởng ăn ỉa có người dọn” trong khuôn khổ của cái lồng , được quyền tự do hót nhưng thường thì khi từ nhỏ người ta sẽ dạy cho nó hót những câu “đúng đắn và lặp đi lặp lại ” đại loại như “líu lo líu lo , Vì Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa - vì lý tưởng của bác Hồ vĩ đại - sẵn sàng” hay “ huýt , huýt , vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh”... , những chú chim hót hay này sẽ được người ta cho hưởng những đặc quyền đặc lợi , thức ăn ngon, chổ ở đẹp .... Còn tất nhiên biện pháp tốt nhất dành cho những con chim suốt ngày gào thét “két két , tự do , dân chủ , nhân quyền ” điếc tai thì sẽ bị đưa vào những “chuồng cải tạo ” với những tội danh rất lạ tai như “Phản động” “thế lực thù địch” “chống phá nhà nước XHCN” “âm mưu diễn biến hòa bình” .... và cải tạo đến chừng nào chịu hót đúng bài thì thôi , còn không thể cải tạo thì tìm mọi cách loại bỏ khỏi đời sống của loài chim . Cũng vì hoàn cảnh sống trong lồng tù túng cứt cơm lẫn lộn như thế, nên khi nghe thấy những chú chim khác hót ca kể về đời sống văn minh của loài chim tự do , nhiều chú chim trong lồng rất hoang mang không biết có thật mình đã bị đánh lừa suốt quãng đời qua không ? dù sao may mắn thay cho nòi giống của loài chim vẫn còn nhiều những con chim đại bàng khao khát tự do ,phá cũi xé lồng oai hùng tung cánh tìm về với bầu trời xanh lơ .

Này bạn tôi ơi ! đất nước mình có độc lập không khi đất nước bị lèo lái bởi những thái thú của Tàu Cộng , tự do là gì khi đến lòng yêu nước cũng bị tước đoạt , và hạnh phúc ở đâu khi hàng chục triệu người trên đất nước mình vật lộn kiếm ngày 2 bữa ăn không nỗi .

Khi nhìn thấy các mẹ các chị cầm cờ đỏ ảnh “bác” đi khiếu kiện , thấy sinh viên học sinh yêu nước mang cờ đỏ đi biểu tình chống Tàu Cộng , thấy các anh lính gìn giử tổ quốc nơi biên ải xa xôi hay trên các vùng hải đảo mang theo lá cờ đỏ sao vàng , tôi đã thốt lên , các anh ơi ! các chị ơi ! các mẹ ơi ! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập tự do hạnh phúc .

***

Đài Loan 13/3/2009

- Viết cho “bác” ở dưới địa ngục để báo cho “bác” biết dù tôi đã bị Đảng của “bác” nhồi sọ suốt 2 chục năm nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo .

- Viết cho dì của tôi đang vất vã kiếm kế sinh nhai nuôi đàn con nhỏ .

- Viết cho dượng của tôi đang ngày đêm canh giữ trên hòn đảo Trường Sa “còn sót lại”.

- Viết cho anh chị tôi đang hăng hái dấn thân “vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh “

- Viết cho bạn tôi tốt nhiệp đại học loại khá , thất nghiệp , đóng tiền nhà thì hết tiền ăn , muốn ăn thì hết đóng tiền nhà .

- Cũng viết cho bạn tôi, con một gia đình quan chức giàu có nhưng đang sống mất phương hướng trong xã hội lộn ngược này .

- Và viết cho thằng em tội nghiệp của tôi đang ngồi trên ghế nhà trường ,miệng đọc ê a, mặt mày ngơ ngác .

...Blacky
Lê Trung Thành
nguồn : http://www.trangdenonline.com