ĐẠI HỌA NHÂN LOẠI CỘNG SẢN.
ĐẠI HỌA NHÂN LOẠI CỘNG SẢN. magnify
ĐẠI HỌA NHÂN LOẠI CỘNG SẢN. - TRƯƠNG MINH HÒA -
Karl Marx, kẻ bất lương khoa bảng, lưu manh trí thức vào thế kỷ 19, thời mà Âu châu bùng phát cuộc cách mạng kỷ nghệ, phát sinh ra thành phần kỷ nghệ gia giàu có, cạnh tranh với" giai cấp thượng lưu quí tộc" lãnh chúa đương thời, khi thấy những người giàu ở Âu Châu, nhất là tại đất tạm dung ở Luân Đôn, Anh Quốc trở thành" tư bản" mà căm thù một cách vô lý. Trước khi oán trách người khác, xã hội, hảy nhìn lại chính bản thân, nếu là người lương thiện. Tuy nhiên Karl Marx không có cái" phản ánh" tâm thức như thế, thay vào là lòng thù hận những người giàu, nên hắn mới đưa ra chủ nghĩa Cộng Sản với: Duy vật biện chứng, Duy vật sử quan và tư bản luận, là" tà kinh" dạy ăn cướp, giết người, lý luận ngụy chứng của kẻ gian ác, khi được thời cơ vùng lên để gây ra tội ác và từ đó tiến tới việc biến nạn nhân thành nô lệ từ đời nầy sang đời khác, khi mà đảng cướp vẫn còn cai trị. Nếu là người hiền lương, thì Marx cố gắng làm việc, ít ra cũng đủ trang trải cho cuộc sống; tuy nhiên, sống nhờ vào đồng tiền của người bạn là Engels, một nhà tư bản, mà lại thù ghét tư bản, do đo cái gọi là chủ nghĩa Marx và sau nầy có Lenin biến thành hiện thực mang bản chất phản bội" ăn cháo đá bát" vắt chanh bỏ vỏ, lật lọng, nên người Cộng Sản biểu hiệu cho dối trá, lừa đảo, gian, tham, ác....mà miệng thì hô hào" làm cách mạng", tệ hại hơn là còn xưng là" đạo đức cách mạng", thật là lũ:" vừa ăn cướp vừa la làng", lũ gian nói đạo lý, kẻ mất lý trí tự nhận" đỉnh cao trí tuệ loài người".
Dưới nhản quan" cục bộ" của Karl Marx, khi nhìn thấy một phần nơi mà hắn đang sinh sống tại Anh Quốc mà vội vàng kết luận: công nhân là giai cấp tiến bộ nhất, là những người sẽ đứng lên làm cách mạng lật đổ chính quyền, đoạn lập ra cái gọi là" nhà nước vô sản chuyên chính" và kèm theo cái bánh vẽ: xã hội chủ nghĩa ưu việt, và đỉnh cao là thiên đàng Cộng Sản không tưởng; nên những ai từng sống dưới chế độ Cộng Sản đều biết là: thiên đàng Cộng Sản chỉ dành riêng cho người Cộng Sản hưởng thụ, còn dân chúng làm nô lệ, phục dịch cho đám cán ngố, cán gian, các ác, cán tham cầm quyền. Hầu hết các chế độ phong kiến, các triều đại Vương quyền, đều xuất phát từ sự chiến đấu trong qui luật" mạnh được yếu thua" nên vua là độc tài, triều đình, quan lại, quân lính là thành phần thống trị; nhưng mỗi loại đều được đào luyện để làm nhiệm vụ tương xứng. Trong mọi lãnh vực từ nông dân, thợ thuyền, hành chánh, y khoa, kỹ thuật, khoa học....cũng đều được đào luyện mới làm việc có kết quả, là khả năng chuyên môn như câu:" Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh"; trong khi công nhân thường là ít học, đem sức lao động đổi lấy đồng lương, nên không được đào luyện thành" lãnh đạo", cũng như đem một thợ máy mà" nâng cấp" thành bác sĩ giải phẫu bịnh nhân, thì tính mạng như chuông treo chỉ mành, không chết cũng tàn phế.
Công nhân đứng lên lật đổ vương quyền hay các" thể chế chính trị tự do" để lập ra cái gọi là" nhà nước vô sản chuyên chính" là điều vô cùng nguy hiểm, chắc chắn mang lại nhiều sai lầm, chết chóc do những người không biết điều hành quốc gia, kinh tế, làm chính trị....thì đất nước không bao giờ tiến lên, khi mà người thất học cầm quyền, quyết định tất cả, nó còn tệ hại hơn chế độ quân chủ phong kiến. Nhưng hầu tất cả những" môn đệ bất lương" của Karl Marx như Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành.... đã làm nên" cách mạng thành công" là nhờ vào thành phần nông dân, lại càng nguy hiểm hơn, vì nông dân là thành phần" lạc hậu, bảo thủ" hơn công nhân ở các thành phố; đó là cái sai lầm, trật bài vị" cơ bản, cơ sở" của tà thuyết Karl Marx.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông dân là giới bị áp bức bởi các chế độ vương quyền, trở thành nông nô cho vua, lãnh chúa, nên trong lòng nông dân mang sẵn bản chất" vùng lên" trong hoàn cảnh thuận tiện, nhất là những" nông dân bất lương" thì sự đứng dậy rất nguy hiểm. Không phải bất cứ nông dân nào cũng" vùng lên hởi các nô lệ ở thế gian" như bài" quốc tế ca" của người Cộng Sản phổ biến. Tuyệt đại đa số nông dân hiền hòa, an phận thủ thường, cần cù, chăm lo đời sống gia đình, gắn bó với mảnh đất; bên cạnh đó là có một số nông dân gian ác, đồng quan điểm" cướp của giết người" của Karl Marx, nhằm thỏa mãn tự ái; thế là thành phần nông dân gian ác nầy gặp được những kẻ" đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" trong tinh thần" ngưu tầm ngưu, mã tầm mã"; những nông dân dốt, ít học được người Cộng Sản" gảy" đúng vài tim đen: phong chức tước, ban cấp quyền hành giết người cướp của, hứa hẹn cho làm quan và đủ thứ các quyền lợi khác, đám nầy trở thành cuồng nhiệt, làm bất cứ tội ác theo lịnh trên, dù phải giết hại cả cha mẹ, thân nhân, bạn bè....
Do đó, nông dân là thành phần" chủ yếu" đưa tới sự thành công của người Cộng Sản kể từ khi Lenin làm cái gọi là" cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917". Nông dân từ lâu muốn vươn lên lãnh đạo trong những ngành:" nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương" từ thời xưa; sự ước mơ của nông dân, dù tạm bợ:" Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ" nhưng cũng nói lên bản chất vùng dậy và khi gặp phải tà thuyết Cộng Sản, thành phần nông dân bất lương như thài lài gặp cứt chó, phát triển mạnh và giao bao tội ác, đó là" ĐẠI HỌA NGƯỜI CÀY" làm cho thế giới luôn bất ổn, chiến tranh, thù hận, chém giết qua cái chiêu bài:" đấu tranh giai cấp" từ năm 1917 đến nay, dù thế giới đang tiến hành phong trào dân chủ hóa, nhưng cái nọc độc Karl Marx vẫn còn hiện hữu tại 5 nước tàn dư: Trung Cộng, Việt Nam, Lào, Bắc Hàn, Cu Ba và nay chất độc Cộng Sản đang tác động ở Nepal, Venezuala...tức là ngày nào còn bất cứ một nước Cộng Sản trên thế giới, là ngày ấy nhân loại chưa có thể sống yên.
Phong trào vùng lên giết người, cướp của, bắt người làm nô lệ được thực hiện bởi lực lượng nồng cốt" dân cày", đưa thế giới vào bất ổn, tại các nơi Cộng Sản cai trị thì nghèo khổ, lạc hậu...nên chế độ Cộng Sản là nguyên nhân bạo động, đánh phá, khủng bố, gieo rắc tai họa, chính tà thuyết Karl Marx kéo nhân loại trở về" thời kỳ bộ lạc", cách đây hàng triệu triệu năm là" thời kỳ đồ đá", thì chế độ Cộng Sản ngày nay thời đại:" đồ ăn cướp" được" hiện đại hóa" núp bóng" cách mạng". Lenin thành công tại Nga là nhờ vào thành phần nông dân" cuồng nhiệt" hùa theo vì không ưa và bất mãn chế độ phong kiến lâu đời, nhưng khi cướp được chính quyền, thì chế độ Cộng Sản Nga giết người, cướp của hàng loạt, dã man gắp trăm lần Nga Hoàng, mức độ tàn nhẩn lừng danh với" ngục tù bao la" ở Tây Bá Lợi Á, tội ác tày trời với hơn 40 triệu dân Nga bị tàn sát bằng nhiều hình thức man rợ.
Tại Trung Hoa, Mao Trạch Đông từng chạy thụt mạng trong cái gọi là" vạn lý trường chinh", hắn và một số đồng bọn phải trốn vào hang núi ở Diên An; nhờ cuộc xâm chiếm của Nhật Bản mà chính phủ Tưởng Giới Thạch" hòa hợp hòa giải" với Mao để chống kẻ thù; nào ngờ Mao gian tà, lợi dụng thế liên hiệp để phát triển đảng cướp Cộng Sản Trung Quốc, khích động sự bất mãn nông dân, làm lực lượng nồng cốt, là" cơ sở chủ yếu" cho sách lược" chiến tranh nhân dân" với công thức" lấy nông thôn bao vây thành thị" nên cuối cùng, chính quyền Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy khỏi lục địa, di tản sang Đài Loan năm 1949. Sau khi cầm quyền ở Hoa Lục, Mao Trạch Đông sử dụng đám nông dân dốt để giết địa chủ, phú nông, và cuối cùng thì Mao cùng với một số đồng đảng bất lương cai trị bằng bạo lực, gây là cái chết hơn 65 triệu người, từ các chiến dịch điên cuồng: bước tiến nhảy vọt, trăm hoa đua nở, đại cách mạng văn hóa....
Tại Việt Nam, tên quốc tặc Hồ Chí Minh mang cái" sở học" dạy cướp của giết người từ Liên Sô, được đào tạo ở trường dạy" khủng bố" Công-Nông từ năm 1924. Hắn cũng" lấy nông dân" làm lực lượng nồng cốt để gia nhập đảng cướp và đồng thời cũng" sáng tạo" thêm là thu phục những tên" đầu trộm đuôi cướp" giết người, lừa đảo chuyên nghiệp khắp nơi trong nước, trở thành một băng đảng siêu cướp mang tên" đảng Cộng Sản Việt Nam", sau 1954 đổi tên là Đảng Lao Động Việt Nam và vào miền Nam được đổi thành" Đảng Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam". Nhờ nông dân dốt đi theo, rồi thời còn yếu, tranh thủ thêm" địa chủ khai minh tiến bộ" ở nông thôn để nuôi quân thời kỳ mệnh danh là:" đánh Tây giành độc lập", nên Hồ Chí Minh có trong tay một lực lượng" sát thủ" hàng loạt: tay giết người, miệng nói như vẹt những từ ngữ Cộng Sản, là chất" xúc tác" làm hứng khởi, kích động gây tội ác; tổng kết sơ sơ về số người bị giết từ ngày có Hồ Chí Minh đến nay thì con số nạn nhân hàng triệu người dưới sự cai trị tàn ác của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thời kỳ gọi là" đánh Mỹ cứu nước" ở miền Nam, thành phần u mê, nông dân dốt được đảng hứa hẹn cho làm quan, nên hăng hái gia nhận lực lượng" du kích khủng bố", được đoàn ngũ hóa trong cái tổ chức tay sai" Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam" với bình phong là một số" khoa bang lưu manh" như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát......gây biết bao" xương tan, máu rơi" khắp miền Nam. Sau cái chiến thắng thời cơ ngày 30 tháng 4 năm 1975, do chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người có tánh ích kỷ, hẹp hòi, muốn phá nát quân đội trước khi" trở thành chiến sĩ ra khơi" để cho những người kế tiếp khó lòng giữ vững miền Nam. Nếu không có những mệnh lệnh bất nhất" sáng rút quân tái phối trí lực lượng, chiều tái chiếm" biến thành" di tản chiến thuật: bỏ ngõ miền trung, nếu ông Thiệu không rút những đơn vị thiện chiến" Thủy Quân Lục Chiến, Dù", thì Cộng Sản Bắc Việt khó" tiến quân như chỗ không người" do các vùng đất bỏ ngõ, và Cộng Sản cũng phải lãnh thảm bại như trận tổng công kích Mậu Thân năm 1968. Quân lực VNCH không thua, chính ông Thiệu phá nát quân đội, đưa đến mất nước.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đoàn quân cướp từ rừng rú tràn vào thành phố, toàn là nông dân dốt miền Bắc, Nam và cán ngố trong đoàn quân" chánh qui Bắc Việt" đã đem lối sống" cực kỳ văn minh miệt vườn, miền núi" vào, làm trò hề cho dân chúng, để lại bao" huyền thoại của người Cộng Sản", bia miệng khó dứt, dù sau nầy chế độ Cộng Sản sụp đổ:
-Dùng" tã hồng bịt háng" của phụ nữ để làm" khẩu trang" khi đi ngang qua đống rác" tàn dư chế độ Mỹ Ngụy để lại" hầu phòng chống" dịch tể, vệ sinh phòng bịnh".
-Ngồi kiểu nước lụt, dù ở ghế sa long sang trọng vừa mới" tiếp thu"
-Mang lươn, cá...rọng vào nơi mà tưởng là an toàn" ở cầu tiêu do bọn phản động để lại" hay nhà vừa tiếp quản. Sáng hôm sau la hoảng là bị ăn trộm, cũng là" tàn dư chế độ Mỹ Ngụy" để lại.
-Dùng cơ phận con người để nuôi heo, trồng trọt.
Còn nhiều chuyện khác mà thành phần" đỉnh cao trí tuệ nòi người" hay là" đỉnh cao chói lọi" đã trở thành" đỉnh cao cháy rụi" sau khi" tiến vào Saigon, trận cuối là trận nầy" nên thành phần" dốt nát, cộng tích cực, đâm ra phá hoại" là đám" cà chớn đầy đường" là những kẻ" cướp có ngụy chứng Marx Lenin". Do cái" nhà nước" đa số là nông dân dốt, thành phần đầu trộm đuôi cướp nên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam càng ngày càng thua xa các nước về mặt kinh tế, đời sống dân chúng và đất nước bị tàn phá khủng khiếp từ môi trường đến nền tảng đạo lý. Công trình thủy lợi thành" thủy hại" nhan nhản khắp hệ thống" con kinh ta đào, chưa có nước chảy qua" và gần đây hiện tượng các con cầu như Cần Thơ, Trung Lương... đang thi công thì đã sập; rồi tại những thành phố lớn như Hà Nội, Saigòn, mới mưa mà đã lụt, triều cường sông Saigon bình thường, thế mà dân chúng tưởng là" trận đại hồng thủy". Nhìn cái gọi là" nhà nước" và đảng lãnh đạo, thì thấy ngay đây là" cặn bả nhất trong xã hội". Ngoài tên Hồ Chí Minh có quá trình" gian, dâm, ác", có Lê Duẫn, xuất thân là gã đánh xe bù- ệt ở Bến thủy ( không có đi học), Đổ Mười vốn là" thiến heo" thành thủ tướng, tổng bí thư, Xuân Thủy nghề thái thuốc Bắc, Lê Khả Phiêu là bộ đội ngố cũng không học nhiều, Nguyễn Tấn Dũng khá hơn, học tới lớp 7....nên nhằm thỏa mãn tự ái" thằng ngốc làm vua" nên nhiều cán bộ trung ương, trung cấp, địa phương tìm cách thực hiện những bằng cấp tiến sĩ, phó tiến sĩ giả, thành lực lượng" tiến sĩ Cầu Muối", là thứ bằng" tự biên tự diễn" không người lái, nếu có học cũng" dốt như chuyên tu, ngu như tại chức" là trường hợp của tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
Nông dân, với thành phần bất lương, gieo bao tai họa cho thế giới nói chung, là cuộc chiến tranh lạnh và sau 1991, dù Liên Sô và toàn khối Cộng Đảng Đông Âu sụp đổ, nhưng tàn dư Cộng Sản vẫn còn đe dọa thế giới. Sau nhiều thập niên nằm im, áp dụng lối kinh tế dị mô:" lấy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", nhờ mượn đầu heo nấu cháo là vốn từ" tư bản phản động" nên Trung Cộng có mòi đang khơi dậy cuộc" hậu chiến tranh lạnh". Việt Nam cũng thế, là một huyện bất thành văn của Trung Cộng, nên những mệnh lệnh chỉ đạo chiến lược thường xuất phát từ Bắc Kinh. Mối quan hệ giữa thiên triều Bắc Kinh và tập đoàn quan Thái Thú Trung Cộng gốc Việt được ngụy trang dưới bình phong:" tình hữu nghị Việt-Trung bền vững như răng với môi" nên thiên triều muốn gì là tập đoàn Thái Thú Việt Nam phải thi hành; đó là những hiệp ước quan hệ song phương về vùng biển, quần đảo, cắm mốc biên giới, hợp tác kinh tế.....nông dân dốt, ít học ngày nay vẫn cầm quyền, những tên dốt như Đổ Mười, Lê Đức Anh....trở thành" Thái Thượng Hoàng" của đảng cướp Cộng Sản, là" thế lực đen" khống chế quyền lực; ngày nay đám nông dân dốt, đầu trộm đuôi cướp cầm quyền, lúc suy yếu chúng chiêu dụ khoa bảng, nhất là hải ngoại để giúp, cứu đảng vượt qua khó khăn; nhưng làm gì đi nữa, thì cái đuôi:" xã hội chủ nghĩa" vẫn không thể tách rời, đó là bản chất của người Cộng Sản. Tà thuyết Cộng Sản do Karl Marx dạy dỗ đám" bất lương, đại bất lương" trên thế giới là một" thoái trào lịch sử cực kỳ tệ hại", nguy hiểm hơn là vận mệnh con người, đất nước lại nằm trong tay những kẻ" dốt nát, ít học" mà người ta cho là:" những kẻ dốt nát, ít học thường độc ác hơn những người có học". Do đó, sấm giảng truyền tụng trong dân chúng trước 1975 đã được chứng minh sau khi miền Nam lọt vào tay đảng cướp Việt Cộng:
" Chừng nào thằng ngốc làm vua.
Thế gian cạo trọc, thầy chùa để râu"
Hay là sau nầy:
" Năm đồng đổi lấy năm xu.
Thằng khôn đi học, thằng ngu dạy đời".
Trong một xã hội, những người không hiểu luật thường hay làm bừa, trong xã hội chủ nghĩa, khi chính quyền đa số là" dốt nát, dốt nát, đại dốt nát-ít học, ít học, đại ít học", nông dân nòi đươc thế trở thành chủ nhân, quyền lực, thì đưa đến hậu quả tất yếu:
-Đất nước không khá nổi, do những người cầm quyền từ" hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc" đều không được đào tạo để làm công việc lớn lao, kinh bang tế thế, ảnh hưởng đến đời sống hàng triệu con người.
-Hành chánh rườm ra, điều hành guồng máy theo từng" sáng kiến, sáng tạo" của từng cán ngố, đầu ngành, nhân viên; nên sinh ra luật rừng, là trở ngại không nhỏ cho dân chúng, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài.
-Bản chất tham lam của những kẻ dốt cầm quyền, làm cho dân chúng sơ xác do bị sách nhiễu, bốc lột trường kỳ.
Với kém trình độ văn hóa, không được đào tạo để làm công việc chuyên môn" điều hành, quản trị đất nước", mà trong cuộc chiến được huấn luyện để giết người, khủng bố dân lành; trong thời bình thì ra tay vơ vét, nên những thằng dốt, ít học chỉ đạo mọi thứ, là nguyên tắc đào tạo" Hồng hơn chuyên" là động lực làm cho đất nước tụt hậu, dân chúng tiếp tục cơ cực, nhưng đảng viên đảng cướp càng làm lớn càng giàu, là điều mà ngày nay, ai cũng nhìn thấy. Thế giới nói chung và nước Việt Nam nói riêng đã bị thành phần" nông dân" dốt nát như bản chất bất lương trong giới nông dân chất phác làm hại, đó là" đại họa dân cày", là cuộc nổi loạn của nông dân, được hướng dẫn bởi tà thuyết Karl Marx và những tên gian ác áp dụng như Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh....khi nông dân có quyền trong tay, chúng ra tay cướp cả nông dân, dù trước đây từng là" đồng chí" từng có công" đánh Tây giành đập lột, đánh Mỹ phá nước", nên từ hơn 20 năm qua, đội ngũ dân oan khiếu kiện gia tăng.
Tại miền Nam, chính nhờ thành phần" nông dân dốt tham lam, ham quyền" nên đảng Cộng Sản mới đưa nhiều sư đoàn chánh qui Bắc Việt vào nam, được dung dưỡng, nuôi quân, làm nhiều công việc khác... đúng hơn là: thành phần nông dân thân Cộng miền Nam chính là" rước giặc vào nhà" và nay trong số những kẻ tiếp tay cho giặc ấy, trở thành" hồn ma bóng uế" khi mà quyền hành bị các" đồng chí" thân thương lấy hết, cho về hạ tầng công tác, phục viên. Một điều đáng khinh là: đám nông dân dốt từng lập công dâng đảng, có người vẫn còn tôn thờ tên chủ cướp Hồ Chí Minh, dù bị đảng cướp đất, lấy nhà....họ chỉ khiếu kiện và không dám làm cuộc" cách mạng vùng lên để đổi đời" như họ từng theo đảng cướp trước đây./.
THƠ LÁI ÂM.
"GIAI TẦNG" NGU DỐT, ÁM" DÂN TÀI".
Đảng Cộng Sản Việt Nam là xưởng sản xuất" khủng bố" nên tuyệt đại đa số" nhân công", nhất là" ban quản lý" đều là thành phần" đầu trộm, đuôi cướp, lưu manh, dốt nát, ít học". Đó là tập đoàn đảng cướp, có chính sách và tiêu chuẩn:" càng dốt càng làm lớn", đó là cảnh" thằng ngốc làm vua, thằng khôn đi học, thằng ngu dạy đời". Nên đám du thủ du thực, bất lương, chăn trâu, trở thành lãnh đạo, thì đất nước chắc chắn phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đến thờ kỳ bộ lạc cũng là logic thôi.
GIẶC ĐỐT nhà dân, DỐT ĐẶC bây.
ĐẤU TRANH phá nước, ĐÁNH TRÂU bầy.
VÙNG LÊN khủng bố, LÊN VÙNG giết.
ĐỨNG DẬY cướp của, ĐẤY DỰNG bày.
GIẢI PHÓNG chiêu bài, dân PHỎNG DÁI.
CÁCH MẠNG giả danh, CẠN MÁCH dài.
ĐỜI THAN kẻ dốt, ĐANG THỜI quậy.
THỨ XỆ cầm quyền, THẾ SỰ nay.
TRƯƠNG MINH HÒA.
Ngày 21.03.2009
(melinh trích đăng)
nguồn : http://www.thegioinguoiviet.net
Tags: đạihọanhânloạicộngsản.
Wednesday March 25, 2009 - 10:49pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
CHÚNG TA ĐANG CHIẾN THẮNG, CHIẾN BẠI CÁI GÌ
CHÚNG TA ĐANG CHIẾN THẮNG, CHIẾN BẠI CÁI GÌ magnify
CỘNG SẢN ĐANG CHIẾN THẮNG, CHIẾN BẠI CÁI GÌ
« Đừng sợ những kẻ có thể giết thể xác anh,
nhưng không thể giết linh hồn anh !
« Đừng sợ những kẻ có thể bỏ tù thể xác anh,
nhưng không thể bỏ tù ý chí của anh !"
( Kinh Thánh )
« Ấy cho nên trăm trận đánh, trăm trận được, không
phải là người giỏi trong những người giỏi.
« Không đánh mà khuất phục được quân người, ấy
là người giỏi trong những người giỏi. »
« Người giỏi trong những người giỏi khuất phục
quân địch mà không làm quân địch tan; lấy đưọc
thành địch mà không làm thành vỡ; chiếm đưọc
nước địch mà làm nước không bể. » (Tôn Tử)
Có người cho rằng những người quốc gia chống cộng sản trong quá khứ cũng như trong hiện tại đã chiến bại và đang chiến bại; trong khi cộng sản thì đã chiến thắng và đang chiến thắng.
Có phải thế không?
Nói một cách tổng quát từ ngày cộng sản cướp được chính quyền vào ngày 19/8/1945 tới nay, cộng sản chiến thắng là nhờ 2 yếu tố chính: 1) Vọng ngoại, sẵn sàng làm tay sai cho Liên Sô và Trung Cộng; 2) Cộng sản quá gian manh, quỉ quyệt, ác ôn và côn đồ.
Nhưng người cộng sản thắng trong ngắn hạn; đang thua trong dài hạn; người quốc gia thua trong ngắn hạn, nhưng đang chiến thắng trong dài hạn; người cộng sản có thể bỏ tù, giết thể xác người quốc gia, nhưng thể giết tâm hồn và ý chí người quốc gia. Người cộng sản thắng trong tinh thần vọng ngoại, nhờ ngoại bang để có chính quyền và cũng nhờ ngoại bang để giữ chính quyền; thắng trong tinh thần gian manh, quỉ quyệt, ác ôn, côn đồ, lừa dối người dân; vì vậy chiến thắng của người cộng sản chỉ là chiến thắng giật thành, đoạt ải, không có sâu rễ, bền gốc trong dân, vì không đi vào được lòng dân, chỉ là chiến thắng của bá đạo, của độc tài, đàn áp, gian dối, không hợp lòng người, hợp lòng Trời, theo tinh thần vương đạo. Trong khi đó người quốc gia chống cộng sản đang chiến thắng trong tinh thần tôn trọng sự thật, tôn trọng tình nhân bản của con người, tôn trọng tình quốc gia dân tộc, tôn trọng nhân quyền, tôn trọng tự do, dân chủ. Những thứ này đòi hỏi thời gian; nhưng một khi chiến thắng thì lâu bền.
I ) Cộng sản vọng ngoại
Giới lãnh đạo cộng sản bắt đầu từ Hồ chí Minh qua Trường Chinh, Lê Duẫn cho tới Nông đức Mạnh ngày hôm nay đều là những người vọng ngoại, tay sai cho ngoại quốc.
Thật vậy, họ Hồ là con người vọng ngoại chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam; và có thể nói trong lịch sử nhân loại; vì ngay cả trong lịch sử các nước cộng sản trên thế giới từ Kim nhật thành qua Honnecker tới Fidel Cactro, chúng ta cũng chưa thấy một nhà lãnh đạo cộng sản nào thản nhiên tuyên bố:
« Tôi không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Hai con người này không bao giờ lầm? « Đây là lời tuyên bố của họ Hồ trong Đại hội lần thứ 2 của đảng Lao động, tức là Đảng Cộng sản Việt Nam, vào năm 1951, tại vùng biên giới Việt Hoa, để trả lời câu hỏi của một ký giả ngoại quốc. Họ Hồ còn vọng ngoại ở chổ tại hang Bắc Bó đã đặt tên núi là núi K. Marx, tên suối là suối Lénine, khi chết thì mơ đi gặp cụ Marx, cụ Lê, gọi Mác Lê là cụ; trong khi đó thì gọi Đức Trần hưng Đạo là bác, trong bài thơ, khi ông viếng thăm đền thờ Đức Thánh trần, với câu:
« Bác đưa một xứ qua nô lệ, Tôi dẫn năm châu tới đại đồng. »
Những người kế thừa họ Hồ cũng vậy. Vọng ngoại không kém. Trường Chinh tên thật là Đặng xuân Khu, lấy biệt hiệu này là vì tôn thờ Mao trạch Đông qua cuộc Vạn lý trường chinh. Lê Duẫn thì thản nhiên tuyên bố vào những thập niên 60, 70 là: « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung Cộng ».
Giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đương thời Nông đức Mạnh, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn minh Triết cũng như vậy, hành xử như những quan thái thú của Trung Cộng, bất cứ việc làm lớn nhỏ gì cũng phải sang khấu đầu Trung cộng để chờ lệnh.
I I ) Cộng sản gian manh, quỉ quyệt, ác ôn và côn đồ
Ông Lê xuân Tá, cựu cán bộ cao cấp Đảng Cộng sản, đã từng làm Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật trong Trung ương đảng, nay thấy rõ bộ mặt quỉ quái của giới lãnh đạo, nên tuyên bố:
« Sự ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không đáng trách và làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và được cấy vào vi trùng ghen tị, thì nó trở thành quỉ nhập tràng. Và con quỉ này nó ý thức rất rõ, và mau lẹ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó, chính là sự hiểu biết, văn hóa và văn minh. Nên nó đã đánh những thứ này một cách dã man, tàn bạo, không thương tiếc. Vụ Nhân Văn giai phẩm ở Việt Nam là vậy. Cách mạng Hồng vệ binh ở bên Tàu là thế. Nhưng chính vì nó là ngu dốt và thấp hèn, nên những thứ này đã trở nên sạn thận, sạn mật, sơ gan, cổ chướng trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ cộng sản, làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. »
Thật vậy Hồ chí Minh, mặc dầu bố là quan, nhưng vì phạm lỗi, nên bị đuổi ra khỏi quan trường, và từ đó họ Hồ không những không còn được học trường Quốc học Huế, mà còn phải sống một cuộc đời nghèo khổ, thấp hèn, làm phụ bếp trên tàu, làm thợ quét rác, quét tuyết; nhưng lại được Đệ Tam Quốc tế cộng sản thâu nạp, huấn luyện cho, để chờ thời cơ cướp chính quyền. Cơ hội đó đã đến là sau Thế Chiến thứ Nhì, họ Hồ đã được Đảng Cộng Sản Liên Sô và Trung cộng, đặc biệt qua nhân vật Chu Ân Lai, gửi về Việt Nam, cướp chính quyền vào ngày 19/8/1945.
Quả thật là sự ngu dốt mà được trao quyền lực, vì khi đi theo Đệ Tam quốc Tế Cộng sản, họ Hồ không phân biệt nổi Đệ Nhị và Đệ Tam quốc Tế Cộng sản, chữ Pháp thì nghe chữ được chữ không, như chính ông tự thú nhận trong quyển Những Mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội, 1975, tác giả là Trần dân Tiên, chính là ông ta.
Sự ngu dốt mà được trao quyền lực và lại được cấy vào vi trùng ghen tị, đó là lý thuyết Mác Lê, chủ trương đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử, xúi dục con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại nhau; nên nó đã trở thành quỉ.
Những kẻ tiếp nối Hồ cũng không hơn, Đỗ Mười là một anh thợ thiến heo, Lê đức Anh là một cai phu đồn điền, Phan văn Khải, Nguyễn tấn Dũng là những anh chăn trâu, chăn bò, rồi theo cộng sản làm du kích, liên lạc viên, cũng chỉ là những kẻ ngu dốt và thấp hèn; nhưng được trao quyền lực từ tay Hồ, và vẫn được cấy vào vi trùng ghen tị, vì theo bản Hiến pháp hiện hành cộng sản Việt Nam, thì lý thuyết Mác Lê vẫn là « ánh sáng soi đường «, cho chế độ. Những con người này cũng chỉ là quỉ nhập tràng.
Những người đấu tranh cho quốc gia, dân tộc, cho tự do, dân chủ, nhân quyền, nên ghi nhớ rằng cuộc đấu tranh chống cộng sàn hiện nay đang đi hợp lòng dân, đang đi đúng chiều hướng của văn minh nhân loại, đó là tiến tới một mô hình tổ chức nhân xã tự do, dân chủ và kinh tế thị trường. Mặc dầu cuộc chiến đấu này chưa mang đến kết quả cuối cùng; nhưng đang trên đà chiến thắng, và là chiến thắng lâu bền. Cộng sản đang trên đà chiến bại; vì đang bị dân oán ghét và thế giới tẩy chay.
Paris ngày 25/03/2009
Chu chi Nam
1.Xin coi thêm những bài về cộng sản trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
nguồn :http://anhduong.info
Tags: chúngtađangchiếnthắng, chiếnbạicáigì
Wednesday March 25, 2009 - 10:25pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
Tôi viết về Hồ Chí Minh
Tôi viết về Hồ Chí Minh magnify
Tác giả: Trần Khải Thanh Thủy
» Dịch giả:
» Thể lọai: Bài viết
» Số lần xem: 1302
1. Tôi viết về Hồ Chí Minh
Như mọi đứa trẻ ở Việt Nam khác, tôi sinh ra chỉ biết có bác Hồ, lên 2 đã nghe các bài hát véo von trên đài: Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng, Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên Việt Nam, rồi: Bác chúng em dáng cao cao người thanh thanh, bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài. Bác chúng em thề cứu nước trả thù nhà. Hồ Chí Minh bác Hồ Chí Minh sống muôn năm... Lại: Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ v.v. Nghiã là có cả một phong trào sáng tác các bài hát về bác, để bọn trẻ chúng tôi tha hồ được nhồi sọ, tha hồ ê a hát theo...
Lên 5, tôi theo gia đình đi sơ tán, giữa vùng quê nghèo đói, người dân coi giấc ngủ bữa ăn, củ khoai, cây lúa quan trọng hơn việc nhồi nhét chữ nghiã trong đầu, tôi nhanh chóng nổi bật lên chinh phục bọn trẻ làng; vừa là con cán bộ sơ tán, đi học có áo trắng, quần lửng để mặc, trong khi bọn trẻ quê đi học còn phải mặc áo rách, hở khuy, tòi ra cả một đống bụng màu nâu xỉn. Chỉ riêng việc ấy thôi cũng đủ để tôi được các thầy cô cảm tình trở thành cháu ngoan Bác Hồ, tôi lấy làm kiêu hãnh về điều ấy lắm. Khi trở lại Hà Nội, tuy danh hiệu cháu ngoan không còn vì có vô vàn đứa trẻ khác giỏi và ngoan ngoãn hơn tôi, nhưng hình ảnh bác vẫn còn in dấu mãi trong tôi. Mở mắt là nghe tiếng thơ phát trên đài:
Nhà em treo ảnh bác hồ,
Bên trên là một lá cờ đỏ tươi
Ngày ngày bác mỉm miệng cười
Bác nhìn các cháu vui chơi trong nhà...
Mười năm học phổ thông, tôi bị đúc khuôn nhồi sọ bởi đủ thứ tư tưởng nội quy, quan điểm, lập trường, đúng như lời nhận định của nhà bác học Tôn Thất Tùng: Trẻ em Việt Nam là một sinh vật ngủ đêm quá ngắn còn ban ngày phải đối phó với đủ mọi quy định nghiệt ngã của nhà trường. Nào nội quy, quy chế, nào thi cử nặng nề, rồi chương trình dài lê thê. Suốt 15 năm học (từ vỡ lòng đến khi tốt nghiệp Đại học), chúng tôi chỉ biết có "Học, học nữa, học mãi" theo lời dạy của Lê Nin. Không ít đứa trẻ trong số chúng tôi học đến mức... đau tim, hộc máu chỉ vì muốn đua chen một chỗ đứng trên giải đường đại học. 15 năm học với tôi như một cực hình tra tấn, trong khi nhà nước cho tiêu chuẩn mỗi tháng 13 kg gạo, một lạng thịt, dăm bìa đậu, mà chúng tôi phải đạp xe 8-10 cây số tới trường xa lơ lắc, người vêu vao như những đon mạ còi không lớn nổi vì thiếu dinh dưỡng. Nhiều đứa trong bọn tôi nói vui nhưng cũng đầy ngậm ngùi cay đắng: Hình như nhà nước càng hạn chế bán gạo, tớ càng ăn khỏe. Ba bát cơm một bữa chả là cái quái gì, mà ăn hơn thì bố mẹ lại phải nhìn nhau, nhịn ăn để nhường phần cho. Thật không biết sau khi ra trường có nên ông nên bà gì không mà nhìn ánh mắt mẹ buồn buồn trong bữa ăn, tế nhị nhắc các em trong nhà bớt ăn thức ăn đi một chút vì anh nó sắp thi học kỳ là thấy thương quá. Không biết sau này phải trả nghiã bố mẹ ra sao?
Tốt nghiệp ra trường với số điểm ưu, tôi những tưởng sẽ được trọng dụng, ai ngờ nhận quyết định đi Lai Châu, mẹ ôm lấy tôi, nước mắt lã chã: ở nhà thôi con ạ, lên trên ấy nước độc, rừng thiêng, không sống nổi đâu.
Nhà nghèo 4 năm trời tôi vẫn không xin được việc, rồi không thể ăn bám bố mẹ trong khi túi tiền bị Đảng "bao" nhiều "cấp" ít, tôi đành phải trốn mẹ ra đi. Mẹ tôi khóc còn hơn ngày ông ngoại bị đội trưởng đội cải cách đến bắt, phải rạch ruột bằng mắt kính bẻ đôi để tử tự. Lên rừng đang thời điểm 1986, cả nước ngắc ngoải trong cơn đói, tầng lớp trí thức chúng tôi được Đảng ưu tiên chỉ đạo tự túc lương thực 3 tháng. Hết ba tháng này lại ba tháng khác, quả thật tôi không hiểu làm sao mình qua được những ngày dài đói lả ấy. Câu thơ của nhà thơ Duy Phi cứ khoan sâu trong óc:
Đời ông lặp lại đời cha
Đời con cháu nối mãi đời cụ kỵ
Quý khoai sắn hơn là sâm với quế
Rau muống ơi, xin hãy muộn mùa hoa.
Anh chủ nhà, quê Ninh Bình, lên khai hoang kinh tế mới, nơi chúng tôi thường xuyên qua lại để trò chuyện, giải thích: - Mong rau muống muộn mùa hoa để làm bánh đấy các cô chú ạ.
Có lẽ chúng tôi sống được là nhờ bà con - những phụ huynh học sinh gốc kinh lên nông trường theo tiếng gọi của Đảng, đùm bọc bằng tất cả tấm lòng trân quý nhất. Mở cửa ra, thấy nặng tay, cố ảy, chợt có vài trái bí mán lăn long lóc xuống tận chân đồi. Tử tế hơn là cân sắn, cân khoai, nải chuối, quả đu đủ rừng. Học bác sĩ Tôn Thất Tùng trong những ngày theo kháng chiến, có ngày tôi phải ăn 20-30 quả chuối thay cơm. Đói cồn cào xót ruột đến mức nhìn thấy chuối là sợ nhưng nhà nước đã cố tình cắt cơm chúng tôi thì biết làm thế nào? Chả lẽ lại vác cái dạ dày thõng thẹo hình dấu phẩy lên sở giáo dục mà bảo: Chúng tôi đói lắm, trả lương, cấp gạo cho chúng tôi ăn đi, đừng bắt tự túc lương thực mãi thế? Vì kế hoạch trăm năm chúng tôi phải lên rừng trồng người rồi, đừng bắt chúng tôi phải vì kế hoạch 1 năm trồng lúa nữa. Bao nhiêu thầy cô giáo chúng tôi đói quá phải bỏ qua cả "lợi ích một đêm" là... làm tình rồi. Trước ba đêm không gặp nhau một lần thì khí dồn lên não, bây giờ ba tháng tự túc lương thực, đói cơm, rét cật làm sao chúng tôi "dậm dật" được?
Trong tôi lúc ấy không hề có khái niệm nổi loạn, đêm đêm chong mắt chấm bài cho học trò, rồi vẩn vơ nghĩ về nhân tình thế thái. Sáng ra nghe tiếng ru của anh chủ nhà vọng sang mà thêm nẫu ruột:
Con ơi con ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi chợ cơm đâu mà đòi
Đói no thì đã tỏ rồi
Cha đành lấp lửng những lời ru suông.
Thằng bé con út của anh chị mới được hai tháng mà bố mẹ đã lăn lê ngoài đồng bãi nương rẫy kiếm ăn. Thức ăn duy nhất là nước đường loãng đựng trong chai thay sữa giao cho bà nội cứ mút chùn chụt. Cả ngày chỉ được ăn thêm 2 đĩa bột muối. Không hiểu sao nó vẫn cứ lớn lên được?
Buồn, đói, chả còn cách nào giải khuây, trong khi hội bạn lao vào chơi "tú lơ khơ" giết thời gian thì tôi lao vào những mê cung rắc rối của ngôn từ. Không ngờ những vần thơ đầu tiên về Đảng cộng Sản thân yêu của tôi lại là những vần thơ tiên đoán về thời thế:
Nhầm lẫn rồi hỡi bác kính yêu
Chủ nghĩa xã hội đang trên đường tắt lụi
Giữa đất nước của Lê nin vĩ đại
Cách mạng Nga làm Lịch sử thụt lùi
Thế kỷ nghèo sinh sản bác vĩ nhân
Bày con cháu gắng gánh tròn hậu quả
Là ngư dân bác chỉ lo được thế
Đất nước đói nghèo nhờ di chúc thiêng liêng.
Bài thơ dài 11 khổ, giữa tuổi đời 29, tưởng tràn căng sức sống mà lại nặng trĩu những âu lo. Lúi húi chép lại thành 5, 7 bản để tặng cho những người thân yêu nhất không ngờ, đáp lại thái độ chân tình của tôi họ xua tôi như đuổi tà:
- Thôi thôi, tôi không nghe cái thứ thơ chính trị, chính em ấy đâu. Bạn không định biến tôi thành thằng phản động chứ?
Trong khi bao bài thơ trữ tình trước đó, hầu như bài nào tôi cũng được khen, có chị còn nghiện thơ của tôi, mượn về nhà cho con cái chép lại vào sổ tay.
Bây giờ nó nằm trong tình trạng "im lặng đáng sợ" với ai cũng chỉ có một thái độ duy nhất "không biết, không nghe, không thấy."
- Cái gì phải đến đã đến, 3 năm sau toàn bộ hệ thống Đông Âu sụp đổ. Điều mà tôi dự đoán trong thơ đã hoàn toàn linh nghiệm. Bạn bè bắt đầu nhìn tôi bằng một con mắt khác, dè dặt hơn, thận trọng hơn, như thể tôi là một kẻ nổi loạn thực sự và nếu chơi với tôi sẽ có ngày mất đoàn, mất Đảng như chơi.
Năm 1994 tôi mới được về Hà Nội lo chuyện lập gia đình. Đám cưới của hai trí thức nghèo cùng làm nghề gõ đầu trẻ chỉ toàn ảnh đen trắng. Khi hạch toán, toàn bộ số tiền mừng vừa khoẳn các khoản thuê. Cho dù phải ngửa tay xin mẹ tiền mua xe đạp nhưng tất nhiên tôi vui lắm, rốt cục tôi cũng biết thế nào nghiã vợ tình chồng, là áo đơn, áo kép không bằng da nọ nép da kia, là vợ chồng hoà thuận là tiên trên trần (Ban ngày) còn ban đêm ắt hẳn phải thành "tiên ở trần" rồi.
Sự nghèo đói cứ lẽo đẽo theo chân chúng tôi từng bước, thay vì gõ đầu trẻ chúng tôi bắt đầu gõ vào đầu nhau chan chát (như chó đốm với mèo khoang). Vì đồng lương chết đói không thể nào bôi đủ cho ba người từ đầu đến cuối tháng. Trong khi còn mẹ già, em dại. Quả là kiếp trí thức trong thời đại Hồ Chí Minh - nơi thiên đường xã hội chủ nghĩa do bác du nhập từ Nga về khổ hơn kiếp lợn, kiếp chó. Suốt thời sinh viên và thời lên rừng khai sáng văn minh cho đồng bào dân tộc, cho đến tận lúc này chúng tôi vẫn bị Đảng bỏ quên. Không "đào tận gốc trốc tận rễ" như khẩu hiệu năm 1930, 1931 là còn may chán.
Nhờ thừa hửơng hệ gien của dòng họ: "Trứng rồng lại nở ra rồng" tôi được chuyển nghề, từ gõ đầu trẻ sang gõ đầu mình. Rồi thường xuyên có mặt trong đội ngũ viết thuê cho các nhà xuất bản. Nhờ vinh dự đặc biệt này, mà tôi thường xuyên được tiếp xúc với các nhà văn nhà báo lão thành, những cây đa cây đề, bậc tiên chỉ trong làng báo và làng văn xã hội chủ nghĩa. Tuổi già là kho báu. Tiếp cận với họ tôi thực sự được tắm trong suối nguồn hào phóng của tri thức, trong đó có cả đề tài về bác. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy họ có những nhận định táo bạo về vị cha già dân tộc, chẳng hề tôn kính chút nào như nhà nước và Đảng đã đầu độc họ. Không hề sợ phạm huý, giữa những người cầm bút với nhau. Họ bộc lộ thẳng thắn: "xì ông cụ nhà mình toàn đạo trích, giỏi giang cái đếch gì". Để chứng minh, họ lôi ra tràng giang đại hải những tiếng Nôm tiếng Hán, tôi nghe mà ù cả tai, rồi người khác tiếp tục khẳng định: Cả tập "Ngục trung nhật ký" có phải của cụ đếch đâu, trình độ cụ biết chó gì mà đòi làm thơ chữ Hán, chẳng qua cụ ăn cắp của người khác thôi, điều này thì có ông Từ Mục hay Hữu Mục gì đó ở Hải Ngoại chứng minh rồi... Và: Sao cái lớp trẻ dễ tin thế nhỉ, người như cụ Hồ mà giản dị, độc thân sao được? Rồi: Thằng bé Trung, con ông cụ không biết giờ này sao rồi. Đảng mình ác thật... Những lời tiên tri ấy lập tức găm sâu vào đầu óc tôi như rêu xanh bám chặt vào tảng đá.Suốt cả đêm tôi lúi húi chép lại từng lời từng chữ vào trang sổ của mình, sáng ra có điều gì không rõ lại phải làm như vô tình hỏi lại để tăng tính xác thực cho tư liệu... Trước đó qua số bạn bè cùng dạy, tôi may mắn gặp nhà viết chèo Tào Mạt, nổi tiếng với "bài ca giữ nước", sau khi mối quan hệ trở nên thân mật, ông bộc lộ: Tôi được trung ương giao cho viết một vở chèo về bác, thú thật lúc đầu tôi thấy vinh dự lắm liền vào ngay thư viện ôm một đống sách về để nghiềm ngẫm, vào tận quê ông cụ để lấy thêm tư liệu, đọc cả sách nước ngoài ca ngợi cụ, rồi để cả năm trời kiểm chứng, cuối cùng phải bỏ, vì cụ Hồ là người người hoàn toàn không tin được, đầy gian giảo, xảo quyệt, khác hẳn với những điều bịa đặt trong sách. Bây giờ để có tác phẩm thay thế, tôi phải chuyển sang viết về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Tôi ngỡ ngàng nhìn ông như nhìn một tên nghịch tặc, nhưng tôi tin trong ông phải có ẩn ức sâu sa lắm mới nói được những lời nguy hiểm chết người như thế. Không bao lâu sau tôi nghe tin ông bị người của Đảng rình bắt tại khu vực 51 Trần Hưng Đạo, 65 phố Nguyễn Du, 9 Nguyễn Đình Chiểu, 19 Hàng Buồm [1] những nơi ông thường xuyên lui tới để gặp gỡ anh chị em trong giới "tối" tác. Cũng may bà Trần thị Bát, một người đàn bà vô cùng quê mùa nhưng lại rất "tỉnh đòn" trong những việc bắt bớ, rình rập này đã lăn xả vào giữ chân chồng suốt một thời gian dài không cho ông ra Hà Nội, nên vụ vây bắt không thành. Sau đó không bao lâu ông bị bệnh và chết, nhưng ấn tượng từ câu nói của ông về bác Hồ làm tôi không thể nào quên. Tết 2003 tôi đến nhà bác Chương Thâu, người bỏ tiền của sang Nhật, tìm tư liệu để viết 14 tập về nhà yêu nước Phan Bội Châu. Ông không nói lộ ra ngoài nhưng đọc trong mắt ông, tôi biết ông chẳng ưa gì người cha già của dân tộc mình. Ông bảo: Nếu cho phép treo ảnh lãnh tụ, ông chỉ treo ảnh một mình cụ Phan Bội Châu thôi. Tôi nghĩ phải có lý do gì thôi thúc lắm ông mới bỏ gần cả cuộc đời để nghiên cứu và hoàn thành một tác phẩm kinh điển 14 tập về cụ Phan như thế. Dày dặn và trang trọng hơn tác phẩm "Tư bản luận" của Mác hay "Chước tác" Hồ Chí Minh. Tôi tin trong quá trình nghiên cứu Phan Bội Châu ông thừa biết tội của cha già đã bán đứng nhà yêu nước họ Phan cho thực dân Pháp lấy tiền như thế nào. Vì thời thế ông không tiện bộc lộ, mà bắt chúng tôi phải tự mò mẫm tìm hiểu lấy mà thôi.
Năm 2005, tình cờ tập "Nhật ký trong tù" rơi vào tay tôi. Trước đó tuy phải học, phải nhồi sọ về bác nhưng tôi chẳng nhớ điều gì cụ thể ngoài nỗi đắng cay vì thi tốt nghiệp bị 2 điểm môn văn (suýt trượt) trong khi phân tích bài "Giải đi sớm" của người. Lần này tôi đọc kỹ lưỡng hơn, như sợi tóc chẻ làm tư, một khối quay ru bích quay đủ 7 mặt. Tôi ngạc nhiên vì một câu bác nhận xét tập thơ của Cù Huy Cận lại rất đúng trong trường hợp này: Bài hay xen lẫn với bài thường. Như thơ của hai người khác nhau cùng làm vậy. Cái hay thì vượt trội hẳn lên, còn bài thường thì ngô ngọng, chả có vẻ gì là thơ cả. Trong tôi loé lên sự nghi ngờ và quyết định phải làm rõ sự nghi ngờ của mình dù phải mất bao nhiêu thời gian đi chăng nữa.
Nhìn một cây không thể thấy cả cánh rừng, tôi mò vào thư viện mượn hai cuốn: Thơ Hồ Chí Minh và Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cùng rất nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn viết về người như Tố Hữu, Chế lan Viên... Càng đọc tôi càng tin vào nhận định sắc sảo của những ông bạn già. Đúng là thơ văn đích thực của cụ chả có gì đáng nói cả, nếu so với những bài thơ của người dân oan bị mất đất mất nhà thì thơ họ làm còn hay hơn vạn lần (cho dù đa phần là mù chữ), ít nhất nó cũng có tâm trạng buồn phiền đau xót, có sự việc cụ thể mà tôi tin dưới bầu trời mặt đất này không nơi nào còn tồn tại những cảnh đời khổ ải như ở Việt Nam, vì thế mà lay động tâm trí, lương tâm người đọc (trừ bọn quan tham, vua điếc) điều khiến tôi phẫn nộ là cụ rất ảo tưởng về mình, trừ mảng thơ chúc tết mà tôi đã mạo muội dự đoán: Lượng thơ không đáng kể, tầm nhìn xa không quá bản thân mình. Và: Thật là một sự xúc phạm ngôn từ quá lớn nếu gọi đó là thơ vì lổn nhổn các lời chúc khẩu hiệu gói trong nền cờ cách mạng v.v và v.v, còn một mảng thơ tuyên truyền gồm 30 bài. Quả thực chưa lần nào đọc thơ (kể cả thơ của tác giả nghiệp dư, đem đến nhờ tôi đọc để nâng cấp hy vọng được xuất hiện trên văn đàn) tôi phải phẫn nộ như lần này. Thơ như đấm vào lỗ tai như thế mà bắt anh chị em dân vận phải học thuộc lòng rồi đi tuyên truyền vận động bà con. Cụ còn bảo hễ ai thuộc nhiều sẽ được trọng thưởng. Chả trách lớp lãnh đạo đàn em cụ đều thuộc diện khinh học cả, vẫn lãnh đạo đất nước như thường, khiến 81 triệu dân Việt Nam được thể "thiến" nhanh, "thiến" thẳng, "thiến" vững chắc lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua giai đoạn giãy chết là chủ nghĩa tư bản). Nghĩa là bị đảng thiến là sẽ chết ngay chứ không cần giẫy chết như kiểu thiến của chế độ tư bản chủ nghĩa...
Trong nỗi bức xúc tột cùng ấy tôi bắt tay vào viết bài đầu tiên:Phát hiện thêm về Hồ chủ tịch, tuy được bạn đọc hưởng ứng hết sức nhiệt tình, nhưng tôi tâm đắc với một nhận xét chẳng ưu ái gì về đứa con tinh thần của mình "Gọi là phát hiện thêm nhưng thực chất chẳng có gì mới cả, quan trọng chỉ là một tiếng nói trung thực ở trong nước". Thú thực lúc đầu tôi hơi tự ái, vì 20 năm cầm bút, kể cả khi còn phải lấp ló sau cánh màn sân khấu, tôi chưa khi nào bị nhận xét theo kiểu kỳ cọ, coi thường như thế. Sau khi sục sạo vào cả kho tư tưởng, xưởng ý kiến của tất cả 256 người, đặc biệt là bản di chúc cuối cùng của cụ do báo Thức Tỉnh San Jose đăng lại từ tờ Con Ong ở Pháp, tôi hiểu là tác giả những lời nhận định cực đoan đó hoàn toàn có lý. Chỉ là mới và thêm so với những người trong nước bị Đảng kìm kẹp, đầu độc tư tưởng thôi, còn với độc giả Hải Ngoại thì họ biết tỏng ra rồi. Thế mà tôi nhớ trước khi lên mạng, tôi bí mật cho một vài người bạn thân thiết trong nước đọc, họ rất lo ngại. Người bảo tôi sinh phải giờ liều, gan to hơn trái núi, người dặn cẩn thận với cánh PA25 đấy. Họ quan niệm "bắt nhầm hơn bỏ sót". Bắt một người để cả triệu phải khiếp lây rồi ai nuôi con v.v và v.v. Chứng tỏ với người Việt Nam thế hệ trung niên như chúng tôi - tất cả những mặt trái của tấm huân chương (trong đó có bác) đều bị bưng bít, ai nói khác đi một chút là bị kẹp chì ngay, kẹp tư tưởng không được thì tổ chức cho kẹp xe để kẹp đầu luôn.
Nhờ các tư liệu quý báu mà bạn đọc Hải Ngoại cung cấp (gấp trăm nghìn lần những điều tôi nghe lỏm từ các lão làng hôm nào), tôi quyết định phải dựng lại chân dung Hồ Chí Minh, để thế hệ cháu con không bao giờ bị đầu độc nữa. Có sách mới áo hoa là nhờ ơn ông bà bố mẹ chứ Đảng bóc lột con dân còn hơn tư bản, thiến dân theo kiểu thiến nhanh, thiến mạnh, thiến vững chắc lên địa ngục xã hội chủ nghĩa thì không chết là may rồi lấy đâu ra mà "vui tung tăng em ca có đảng cuộc đời nở hoa". Trong vương quốc tối tăm này tiền bạc của cải chỉ giành cho những kẻ độc tài, mù loà về đạo lý, lương tâm, kiến thức, còn tầng lớp trí thức chúng tôi, những người may mắn sinh ra từ những quả trứng rồng lại phải chịu cảnh thất nghiệp, tù túng, chết mòn trong vây, nhục hơn cả Từ Hải chết đứng. Như câu thơ tôi đã viết:
Đất nước chìm trong cảnh mù loà
Bao nhiêu Từ Hải chết trong vây
Trời xanh biển rộng đâu mà vẫy
Đành làm mọi tôi ở xứ này.
Nghiã là làm mọi tôi cho những kẻ xuất thân từ dòng giống liu điu khác như Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn An v.v.
Suy xét cả bốn đời từ đời ông bà nội ngoại đến đời bố mẹ rồi đời tôi và đời con tôi, chúng tôi không những không hề được lợi lộc gì từ Đảng mà còn bị Đảng bóc lột đến trắng mắt, trắng tay. Ông nội tôi xuất thân trong một gia đình giàu có ở thôn quê, 2 tháng rưỡi đã được bố mẹ bế lên Hà Nội ở, được nuôi ăn học đầy đủ, sau khi tốt nghiệp trường hậu bổ trở thành quan thông ngôn, chuyên phiên dịch tiếng pháp cho nhà nước Đại Pháp. Nếu các cụ tôi còn bao nhiêu cánh đồng thẳng cánh cò bay ở quê, thì ông nội tôi cũng giàu ức vạn. Trong nhà có tới 13 gia nhân, người ở, từ vú nuôi, con sen, đến người ở, người giúp việc bán hàng, người kéo xe tay, tài xế chuyên buôn vải và gạo tấm từ Nam Định lên cho bà tôi bán tại cửa hàng riêng của gia đình. Vào tay cách mạng, ông tôi mới 48 tuổi bị đột quỵ mà chết, cả nhà lẫn xe hiến hết cho nhà nước. Bác tôi học trường An-Ba-se-ro không chịu nổi cảnh mấy con mẹ bán xôi ngoài cửa trường mình hôm trước một điều cậu hai điều con, nay lên làm tổ trưởng dân phố, mặt vênh như bánh đa nướng chuyên săm soi vào tận gầm giường người khác để tìm vàng tâng công, liền bỏ vào Nam. Bố tôi học trường Bưởi được "giác ngộ" cách mạng từ bé. Nên khi 14, 15 tuổi đã lên giọng chửi bố và anh là bám đit đế quốc đòi từ để một lòng một dạ theo Cách mạng. Sinh ra là con quan, có gia nhân theo hầu từng li từng tí mà khi trở thành anh bộ đội cụ hồ khổ hơn trâu, chó. Từ một thư sinh trắng trẻo khôi ngô thành khỉ Trường Sơn, rồi chết trong mòn mỏi kiệt quệ, trong ngờ vực đớn đau giữa mùa hè 1986. Thời kỳ khốn khó nhất của Việt Nam, sau mười năm phỏng giái, lãnh đạo miền Bắc tiếp quản, thu gom hết tài sản của miền Nam trù phú cho riêng mình nên cả nước ôm nhau ngắc ngoải trong từng ô tem phiếu. Từ lúc theo cách mạng không được ăn no lấy một ngày, ngược hẳn với quãng đời trước đó. Bà ngoại tôi dù có công nuôi cả đại đội trong nhà vẫn bị quy thành địa chủ. Goá chồng lúc 55 vì ông tôi tự tử trong trại giam, 9 đứa con mạnh đứa nào đứa ấy chạy. Cứ chị cả tha em út, anh hai cõng em 5 v.v. người lên rừng, người xuống biển người vô Nam. Bác cả tôi, vì muốn gặp lại ông bà và các em nên sau khi giải phóng Miền Nam, kiên quyết không di tản, dù có 6 người con là lính cộng hoà, cấp bậc trung tướng, thiếu tá, đem xe về tận nhà rước má... cuối cùng phải trả bằng cái giá đớn đau nhất: Chết trong nghèo đói bệnh tật, con cái thất nghiệp, nhà cửa tiêu điều xơ xác. Chị họ tôi đỗ thủ khoa, từng được bà Trần Lệ Xuân vợ của ông cố vấn Ngô Đình Nhu đội vương miện trên đầu, 8 lần vượt biển cùng người yêu không thành, cuối cùng đành để anh ra đi trước, nếu còn sống thì thu xếp đón vợ mới cưới sang sau... vậy mà cho đến năm 47 tuổi ước mơ mới thành hiện thực. Sống bên nhau vì nghiã thôi còn tình thì quá date rồi, đúng như bài hát mà các thành viên trong trại tù của chị vẫn nghêu ngao hát: Tù lâu quá đi thôi, L... tôi teo hết rồi, Đảng ơi [2].
Mẹ tôi 16 tuổi đã phải ra khỏi nhà trở thành Thanh niên xung phong. Làm đường tàu, tuyến đường Hà Nội Thái Nguyên, dưới bóng tối của Đảng, lại dính thêm thành phần là con đại địa chủ, cho dù có là địa chủ kháng chiến đi chăng nữa cũng khổ và nhục hơn triệu triệu lần thời thực dân pháp xâm lược. Tôi được học hành nhờ mẹ thắt lưng buộc bụng, cộng thêm những cẳng cải già, cuống súp lơ, bắp cải trước nhà của bếp trường đại học thải ra, mẹ tôi tiếc rẻ nhặt lại, lược bỏ hết phần xơ phía ngoài lấy lõi bên trong làm rau ăn quanh năm. 15 năm học không một ngày học thêm, toàn vịn câu nói của bố mà vươn lên: Khả năng con người là vô tận, hãy biết khai thác bản thân mình con ạ. Thế là từ lúc lên 9, lên 10 đã biết gõ vào đầu mình để nắm bắt kiến thức và bây giờ liên tục gõ vào đầu mình để viết, lặn ngụp trong câu chữ kiếm ăn, nuôi con và nuôi gia đình nhỏ của mình, không hề nhận được bất cứ đặc ân nào của Đảng, vì ngay sau khi chuyển từ miền núi về Hà Nội đã bị người của Đảng tống ra khỏi biên chế để thế chân con em cháu cha vào. Bắt đầu có chút của ăn của để là nhờ sự giới thiệu, dẫn dắt, kê chỗ đứng của các nhà dân chủ và bây giờ hoàn toàn trông vào tấm lòng của bà con anh em Hải Ngoại, những người biết được cái tài của tôi mà trọng dụng. Nếu không hẳn tôi đã chết rũ trong ngôi nhà xã hội chủ nghĩa tồi tàn vì không công ăn việc làm hoặc phải tự thiêu như bà Phạm thị Trung Thu để đòi lại quyền lợi cho con cái. Vì thế bắt tôi ơn Đảng, ơn bác sao được? Nhà bác học Lê Quý Đôn người đi trước Mác 300 đã nói: Người tài không dùng, sĩ phu ngoảnh mặt kia mà. Nếu Đảng kết tội tôi ngoảnh mặt với Đảng cũng là lẽ đương nhiên. Hơn nữa Đảng nào có tốt đẹp gì, bắt tôi phải đồng loã với cái ác, cái xấu của Đảng sao được? Ngay Hồ Chí Minh trong di chúc của mình cũng nói rõ sự sai lầm của mình vì đã đưa đất nước đi theo con đường của Liên Xô, Trung cộng cơ mà. Ngày 14-8-1969, trước khi đi tìm Lê Nin Các Mác để hỏi tội, cụ đã từng tuyên bố trong di chúc cho cô con gái lai Pháp của mình rằng: Chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là giả bộ. Họ lừa dối nhân dân để chiếm lấy chính quyền cho nước Nga khi đó".
Trước khi biết mình bị đầu độc bằng mũi tiêm của bác sĩ Tôn Thất Tùng, cụ đã mong ước cho nước ta và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa sớm ra khỏi ách cộng sản.
Nhưng thôi tội của Đảng kể muôn năm không hết, mình tôi kể chỉ là giọt nước trong biển cả, sẽ đến ngày 81 triệu dân Việt Nam vùng lên kể tội Đảng, trả Đảng về đúng nơi mà Đảng đã chui ra. Đó là bóng đêm, là hang tối, là khe sâu, vực cao... không khác được.
Hà Nội, cuối năm 2005
Ghi chú:
[1]- Trụ sở hội liên hiệp văn hoá nghệ thuật, nhà xuất bản tác phẩm mới hội nhà văn Hà Nội và hội nhà Văn Việt Nam.
[2]. Nhại lời bài: Mặt trời bé thơ của Trần Tiến.
Tags: tôiviếtvềhồchíminh
Wednesday March 25, 2009 - 09:52pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
một phiên tòa gợi nhớ một phiên tòa
một phiên tòa gợi nhớ một phiên tòa magnify
Bình Luận
24/03/2009
Một phiên tòa gợi nhớ một phiên tòa
Phạm Hồng Sơn
Ngày 06 tháng 06 năm 1931 cảnh sát Anh tại Hồng Công đã bắt được một yếu nhân của Quốc tế Cộng sản III – một tổ chức được liệt vào hàng cực kỳ nguy hiểm tới an ninh của các thuộc địa Anh và Pháp quốc trên toàn thế giới vào lúc đó. Tuyên ngôn Cộng sản có ghi rõ « ...giai cấp vô sản sẽ là người đào mồ chôn Chủ nghĩa Tư bản...và công khai tuyên bố rằng mục đích của họ là dùng bạo lực lật đổ trật tự xã hội hiện hành. »
Tống Văn Sơ, nhân viên cao cấp của Quốc Tế Cộng sản III
Người bị bắt là Tống Văn Sơ tức Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc, nhân viên cao cấp của Quốc Tế Cộng sản III được điều sang hoạt động tại vùng Đông Dương (theo hồ sơ của cơ quan mật thám Pháp). Với thân phận chỉ là người dân bản xứ của thuộc địa Pháp tại Đông Dương và lại bị sa lưới nơi đất khách quê người, cùng với số đồng chí thân cận và có khả năng hỗ trợ cho Tống Văn Sơ tại Hồng Công lúc đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay và bản thân họ cũng phải luôn lẩn tránh sự truy lùng ráo riết của các mật thám Pháp và Anh, tính mạng của Tống Văn Sơ thực đã bị rơi vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Chưa kể, Tống Văn Sơ lại đang là đối tượng bị truy nã án tử hình do tòa án tại Đông Dương đã tuyên vắng mặt vào năm 1929 vì những hoạt động bị cho là kích động bạo loạn. Có lẽ lúc đó, Hồ Tùng Mậu, người lĩnh trách nhiệm đi nhờ luật sư người Anh Frank Loseby để bào chữa cho Tống Văn Sơ cũng không thể hy vọng nhiều có thể giải thoát được cho Tống Văn Sơ.
Nhưng cuối cùng, như chúng ta đều biết, Tống Văn Sơ đã được tuyên là vô tội trước tòa án Hồng Công và an toàn rời Hồng Công để trở về tiếp tục con đường đấu tranh bạo lực mà ông đã theo đuổi. Tư liệu lịch sử có kể lại vụ án đã được đưa ra tòa tới chín lần, với nhiều tình tiết gay cấn, kịch tính và vô cùng khó khăn để buộc quan tòa phải tuyên Tống Văn Sơ vô tội chiểu theo pháp luật Anh quốc lúc đó và chỉ được trục xuất theo một hạn định có lợi cho Tống Văn Sơ.
Nhưng cái đáng kể trong vụ án và phiên tòa chính là các luật sư được hoàn toàn tự do tác nghiệp. Và phán quyết vô tội của tòa hoàn toàn chỉ do tài tranh biện, sự thấu hiểu pháp luật và tài ứng đối thuyết phục của luật sư trước mọi mưu toan kết tội đã có sẵn của chính quyền Anh tại Hồng Công, có sự câu kết với chính quyền Pháp tại Đông Dương. Những kẻ cầm quyền có mưu đồ xấu của cả hai chính quyền thực dân khét tiếng, cuối cùng, đã phải lắng nghe lý lẽ, đã chịu nghe ra lẽ phải và đã chấp nhận tuân thủ luật pháp, cho dù một cách khiên cưỡng. Kẻ cầm quyền của chế độ thực dân cách đây hơn ba phần tư thế kỷ đã biết hổ thẹn trước Lẽ phải và nhường bước trước Công lý.
Trở lại với hiện tại. Phiên phúc thẩm dành cho tám bị cáo Công giáo vào ngày 27 tháng Ba tới đây tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội – Tòa án của chính thể nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (do cựu tù nhân Tống Văn Sơ năm xưa dựng lên tại Việt Nam cách đây hơn 60 năm) liệu có chứng tỏ biết nghe lý lẽ, chịu nghe lẽ phải và biết tuân thủ pháp luật hơn chính quyền thực dân năm xưa hay không? Lẽ nào người Việt của chúng ta lại cư xử với nhau tệ hơn người ngoại chủng ? Lẽ nào chế độ chính trị do chính người Việt chúng ta nắm giữ lại dã man hơn chế độ thực dân ? Lẽ nào ?
Phạm Hồng Sơn
24/03/2009
Nguồn: DCCT
Cập nhật ( 24/03/2009 )
Tags: mộtphiêntòagợinhớmộtphiêntòa
Wednesday March 25, 2009 - 10:18am (PDT) Permanent Link | 0 Comments
csvn Quay đủ 180 độ
csvn Quay đủ 180 độ magnify
Nguyễn Ðạt Thịnh
Việt Cộng đang “đằng sau … quay”, quay đủ 180 độ. Mặt Trận Tổ Quốc của chúng đang đeo lên cái mặt nạ mới để lớn tiếng khuyến khích văn nghệ sĩ, ký giả sáng tác và viết theo hướng động viên lòng yêu nước, kêu gọi mọi người sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ tổ quốc.
Việc “vật đổi sao dời” này làm không làm tôi ngạc nhiên, vì hàng ngày theo dõi tin tức, tôi hiểu nguyên nhân đổi hướng của chúng.
Nhưng tôi vẫn ngồi thần ra hình dung phản ứng của những nhà báo, nhà văn quốc nội khi họ nghe những lời vận động đúng mà sai này.
Ðúng, vì viết hịch hài tội quân xâm lược là việc làm phải đạo, việc họ thích làm, thích viết, thích sáng tác, dù có vì sáng tác mà vào tù ra khám như trong những năm vừa rồi, họ vẫn cứ sáng tác.
Sai, vì Mặt Trận, cơ quan tráo bài “tổ quốc” của Việt Cộng, phải “khuyến khích” chuyện mà mới vài bữa trước chúng còn cấm đoán, còn bỏ tù blogger viết chống Trung Cộng, bỏ tù sinh viên xuống đường phản đối “zụ ziệc nhậy cảm” lãnh thổ, lãnh hải.
Tôi cũng cố hình dung phản ứng của quý vị giáo sư, giáo viên về huấn thị cho phép họ dạy sinh viên, học sinh về địa lý lịch sử Việt Nam. Tôi nghĩ, cũng như văn nhân, ký giả, nhiều giáo chức đang lợm giọng trước cảnh các lãnh tụ Việt Cộng nuốt vào cục đờm chúng đã nhổ xuống đất từ mấy chục năm nay.
Gớm nhờm, nhưng hãy tận hưởng quyền tự do yêu nước mới toanh, vừa được tháo khoán, hãy ra sức ca tụng tiền nhân bốn lần quật khởi đánh đuổi quân Tầu về nước, và chuẩn bị tinh thần cho cuộc Bắc phạt lần thứ 5.
Người tạo ra tinh thần yêu nước cho đám Mạnh, Triết, Dũng là đô đốc Robert Willard, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Ông “tình cờ” đến thăm Việt Nam hôm Chủ Nhật mùng 8 tháng 3, vài ngày sau cuộc hải chiến bắn bằng súng nước giữa chiếc tiểu hạm Impeccable và 5 tiểu hạm của Trung Cộng.
Lính thủy Mỹ bắn súng nước vào chiếc tiểu hạm đến gần họ nhất, lính thủy Trung Cộng trên tầu bị bắn tuột quần tắm bằng nước vòi rồng. Cuộc “hải chiến” không gây một tổn thất nhỏ nào cho trên dưới 200 thủy thủ của 2 nước; nhưng không vì không tổn thất mà là chuyện nhỏ.
Câu chuyện lớn hơn vài ngày hôm sau, ngày thứ Năm 12 tháng Ba, khi ngoại trưởng Trung Cộng Dương Khiết Trì được tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp kiến.
Ông Trì lấc cấc phản đối việc tầu dò mìn Impeccable xâm nhập “hải phận” Trung Cộng mà không xin phép; ông không hát tuồng cương, không phản ứng tùy hứng, mà thận trọng từng tiếng nói, nhất nhất làm theo lệnh của chính phủ ông; thái độ của ông được yểm trợ bằng việc thủ tướng Ôn Gia Bảo lên tiếng “nhắc” một trillion tiền Hoa Kỳ nợ Trung Cộng.
Nhưng vận rủi của Trung Cộng là họ bắt chẹt đúng vào ông tổng thống “chịu chơi” của Hoa Kỳ; Obama không trả lời cả Ôn Gia Bảo lẫn Dương Khiết Trì, mà chỉ ra lệnh cho Đô đốc Williard sang thăm Việt Nam, họp báo ngay tại Hà Nội để nói ông thấy kế hoạch canh tân hóa hải quân Trung Cộng cũng ngồ ngộ, nhưng không dễ thực hiện; ông đánh giá tối thiểu Trung Cộng phải bỏ ra vài trillion nữa và vài thập niên nữa để theo kịp tình trạng hiện tại của hải quân Mỹ.
Nói bô bô như vậy ngay tại Hà Nội mà không ngại đề tài “nhạy cảm”, Williard làm Trung Cộng mất mặt; và không thể không có phản ứng. Họ phái chiếc tầu tuần 311 vào gần hải phận Việt Nam.
Chiến hạm 311, dài 100 thước, trọng tải 4,450 tấn, vận tốc 37 cây số / giờ, có thể được coi là một loại “tầu lớn, súng dài” nếu hải chiến xẩy ra với hải quân Việt Cộng; nhưng hải chiến chưa xẩy ra thì Ðệ Thất Hạm Ðội đã phái chiến hạm USS Chung-Hoon vào biển Ðông để bảo vệ chiếc tầu dò mìn Impeccable.
Chung Hoon là loại chiến hạm nhỏ của Hạm Ðội 7, trọng tải 9,200 tấn, dài 155 thước, vận tốc 30 hải lý (56 cây số/giờ) được võ trang bằng hải pháo và hỏa tiễn. Trên mọi tiêu chuẩn, chiếc Chung Hoon lớn gấp rưỡi, mạnh gấp rưỡi, lẹ gấp rưỡi chiếc 311, và trong hải chiến tương quan đó không thể giao tranh được.
Không cần có mặt trong buổi họp mật giữa Đô đốc Williard và 3 tay lái buôn chính trị Hà Nội, tôi cũng biết ông Williard bảo họ “don’t worry, we will be on time” (chớ ngại gì cả, chúng tôi sẽ đến đúng lúc).
Rồi Williard khoe cuốn album chụp đủ hình 58 chiến hạm của Ðệ Thất Hạm đội, chuyên chở khả năng tác chiến khiếp đảm của 350 phi cơ nằm sẵn trong lòng các hàng không mẫu hạm, và 60,000 lính thủy và lính TQLC Hoa Kỳ.
Tôi không tin chiến tranh Hoa - Việt sắp xẩy ra, không phải vì tin tưởng vào tình môi hở răng lạnh giữa Trung Cộng và Việt Cộng, mà tin vào tài “thả” bàn toán của Trung Cộng, và tài tính bằng computer của các con buôn Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ sẽ không để Trung Cộng tung hoành trên Thái Bình Dương mà một phần lớn bị họ gọi là biển Trung Hoa (China Sea) và tung hoành trên Biển Ðông, vùng biển cả mà họ gọi là Nam (Hoa) Hải (South China Sea).
Và đó là lý do khiến ký giả, văn nhân, nghệ sĩ Việt Nam tha hồ sáng tác những bài thơ oai hùng, những nhạc phẩm yêu nước, tha hồ viết những bài báo chống Trung Cộng, trường học được cho phép dạy đúng về biên giới lãnh thổ và lãnh hải.
Tôi mừng nhưng cũng bùi ngùi vì tác động “đằng sau … quay” của Việt Cộng.
Nguyễn Ðạt Thịnh