BÀI 11 . Vạch trần cái gọi là " đạo đức HCM "
BÀI 11 . Vạch trần cái gọi là " đạo đức HCM " magnify
Vạch trần cái-gọi-là Huyền thoại Hồ Chí Minh
LỮ PHƯƠNG
Hồ Chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam. Đã có khá nhiều ý kiến nhận định, đánh giá sự nghiệp của ông theo nhiều quan điểm khác nhau trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam, trong chế độ cộng sản, từ một nhân vật lịch sử ông đã trở thành một nhân vật huyền thoại có tác dụng huyễn hoặc rất đặc biệt.
Theo những người nghiên cứu về Việt Nam, hiện tượng này có ba nguồn gốc:
1) tự ông cố ý tạo ra để lôi kéo quần chúng,
2) Đảng cộng sản đã dầy công làm cho ông thành một biểu tượng thờ phụng của chế độ,
3) người Việt Nam hy vọng vào ông như một ngưới cứu độ, giúp họ thực hiện được những mong mỏi nghìn đời của đất nước và bản thân.
Nếu huyền thoại Hồ Chí Minh đã cho Đảng cộng sản uy tín hầu như quyết định để chiến thắng trong chiến tranh, thì do những thất bại của Đảng cộng sản trong xây dựng hoà bình mà huyền thoại Hồ Chí Minh từ từ rạn vỡ trong nhân dân và cả trong Đảng. Một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân vật lịch sử này.
Vẽ Rồng Thấy Ðầu Không Thấy Ðuôi
Do phải giữ kín tung tích trong hoạt động bí mật, lý lịch của Hồ Chí Minh cũng là một bí mật. Sau cách mạng 1945, nhiều người còn chưa biết ông là ai. Nhiều đoạn đời của ông có một thời bị nhiều nhà viết tiểu sử ông để trống (như sau vụ thất bại của Xô viết Nghệ tĩnh 1931 đi đâu không biết cho đến năm 1941 mới xuất hiện lại và về nước ). Phần ông, ông lại không chịu viết hồi ký hoặc chính thức công bố đầy đủ lý lịch của mình. Nếu có viết thì ông lại không ký tên thật. Với bút danh Trần Dân Tiên trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch , hình ảnh mà ông tự giới thiệu chỉ là một người cách mạng rày đây mai đó, không có cuộc sống riêng tư. Nhưng đó cũng chính là ý muốn của ông. Trong cuốn sách nhỏ này ông có khen ngợi tài của người hoạ sĩ Trung hoa vẽ rồng và cho rằng vẽ rồng giỏi là chỉ cho người xem trông thấy đầu còn đuôi thì dùng những cụm mây che khuất đi. Thủ thuật ấy rõ ràng ông đã sử dụng để tự hoạ. Cái cốt cách thanh thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt xương xuơng, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều so với một số lãnh tụ cộng sản châu Á khác – như Mao Trạch Đông chẳng hạn.
Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy ngoài một lĩnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết phương Đông. Nhưng đối với ông, không phải chỉ có như vậy. Trong thời chống Pháp, có một dạo, mấy chữ “cha già dân tộc” đã được bộ máy tuyên truyền Việt Minh dùng để tôn vinh ông khá ồn ào (như một câu hát: “thi đua thi đua cha già nhắn tin về …” ). Thật sự thì hình ảnh này đã được chính ông sử dụng để tự đề cao trong Những mẩu chuyện về đời Hồ Chủ Tịch do chính ông viết (“Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam”). Về sau có lẽ vì thấy hơi quá lố, hình ảnh ấy không còn được nhắc lại, mấy chữ “Bác Hồ” được thay vào và giữ mãi cho đến khi ông mất.
Trong tiếng Việt, chữ “bác” chỉ vai người anh của cha, dùng để xưng với các cháu thiếu nhi thì thích hợp. Nhưng sau này, nó lại trở thành phổ biến để mọi người gọi theo. Theo nhiều người gần gũi ông cho biết thì điều đó cũng do ông chỉ đạo: ai mới gặp ông mà gọi ông bằng là “anh” hoặc “đồng chí” thì bị ông chỉnh lại ngay (tôi nghe nói trong những ngươi bị ông chỉnh có Trần Văn Giàu và nhà văn Nguyễn Huy Tưởng).
Cung cách ứng xử của ông thường được coi như tấm gương để toàn Đảng, toàn dân học tập, trong đó tác phong giản dị, cần kiệm, thân dân (lo chuyện tương cà mắm muối cho dân) thường được đề cao nhiều nhất. Năm 1968, sau khi vào chiến khu, suốt 7 năm ở R, năm nào đến 19 tháng 5 (người ta cho là sinh nhật của ông), trong các buổi lễ kỷ niệm tôi đều được nghe không biết bao lần những câu chuyện như vậy.
– Chuyện đôi giép râu. Bác Hồ đi giép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi giép đến mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ mãi không được, cậu đã phải lén lấy đôi giép ấy đi đổi. Khi phát hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại đôi giép cũ.
– Chuyện lá giong gói bánh chưng của dân Hà nội. Mỗi năm khi gần Tết, mặc dầu “bận trăm công ngàn việc”, Bác vẫn điện thoại hỏi đồng chí Trần Duy Hưng, bấy giờ là bí thư thành ủy Hà nội, xem có lo đủ lá giong để gói bánh chưng cho dân chưa.
Còn nhiều chuyện khác có nội dung tủn mủn, lẩm cẩm và “bao cấp” như vậy. Chưa kể đến những bài nhạc, bài thơ – nơi không cần phải mô tả những chi tiết – người ta đã tha hồ dùng sự bay bổng của phạm trù mỹ học gọi là sự cao quý để đưa ông lên chín tầng mây! Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các truyện thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đã dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài gòn, khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều nơi vẫn còn giữ thói quen này, không phải chỉ với riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng sản đã thành thần trong các miễu, các đền).
Cuộc Sống Riêng Tư
Chuyện tình ái, vợ con của ông là điều được dư luận quan tâm, nhưng sách báo của Đảng thường né tránh. Cả một đời vì nước vì non thì màng chi đến những hệ luỵ nhân gian ấy! Nhưng điều này hoàn toàn không đúng ngay cả đối với ông: có lần ông đã cho rằng sai lầm lớn nhất đời ông là không lấy vợ! Nói chơi thôi nhưng thật sự trong thực tế, đã có nhiều chuyện kể cho biết ông có rất nhiều nhân tình ở khắp nơi, từ Pháp, Nga, Trung quốc…
Kim Hạnh lúc làm tổng biên tập báo Tuổi trẻ, vì đăng ở trang nhất tin nói về bài thơ của ông (bí danh Lý Thuỵ khi từ Liên xô ông sang Trung quốc khoảng 1925) gửi người vợ Tàu mà bị cách chức và đuổi khỏi làng báo. Một nhà nghiên cứu Mỹ, khi truy tầm hồ sơ mật của Đệ tam quốc tế lưu trữ tại Moscou sau khi Liên xô sụp đổ, đã tìm thấy tài liệu cho biết khi đi dự một Đại hội Quốc tế cộng sản ở Nga, ông đã khai có vợ và người ấy chính là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai chứ không phải là ai khác!
Trong nước chuyện tình của ông nhiều hơn và cũng nhiều tính chất bi thảm hơn. Dư luận Hà nội râm ran từ lâu chuyện ông ăn ở với một cô tên Xuân, cô này do mật vụ Trần Quốc Hoàn đưa về để phục vụ ông nhưng sau cho người giết đi để bịt tung tích, có đứa con trai được Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông cứu thoát, đem về nuôi. Gần đây nhân Đại hội 9 của Đảng (tháng 4 năm 2001), các hãng thông tấn phương Tây đã nói đến khá nhiều chuyện năm 1941, khi về nước, ông đã quan hệ với một nữ cần vụ người dân tộc và sinh ra Nông Đức Mạnh, nay mới được bầu Tổng bí thư Đảng.
Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục, nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng lắm: các lĩnh tụ cộng sản cũng là những con người, vợ con, này nọ đủ cả, một số lại rất hoang toàng trong cái khoản mục này! Giả sử Hồ Chí Minh có như vậy đi nữa thì công lao chống thực dân của ông chẳng hề bị suy suyển. Nhưng do Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy mà còn vượt lên thời gian tồn tại muôn năm, nên hình ảnh của Hồ Chí Minh phải được tô vẽ sao cho thật lý tưởng, thật phi thường.
Và đó cũng chính là chính sách tạo thần tượng của guồng máy. Người ta có thể vẫn sống một cuộc sống bình thường, nhưng khi Đảng cần thì cái bình thường sẽ được thay vào bằng những việc làm, những sự tích thần thánh. Anh là người có tính Đảng cao thì anh phải biết tuân phục: cứ việc sống bình thường nhưng phải biết cố gắng đóng cho tròn cái vở kịch được tạo ra cho mình. Chỉ vì lợi ích cách mạng thôi. Càng có nhiều tấm gương phi thường để những người bình thường noi gương hy sinh thì sự nghiệp của Đảng mới huy hoàng: cơ Đảng chẳng đỏ rực màu máu hay sao? Chính vì đã dựa trên cái lý lẽ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng đó mà Đảng đã tạo ra khá nhiều những truyền thuyết trong tất cả mọi lĩnh vực từ bộ đội, tình báo đến nhà báo, nhà sư…. Hồ Chí Minh cũng chỉ là một huyền thoại trong những huyền thoại do Đảng tạo ra, nhưng là huyền thoại của những huyền thoại cho nên phương pháp tạo dựng cũng phải hết sức đặc biệt.
Không biết có khi nào suy ngẫm lại những cái đã qua, ông cảm thấy những bất ổn trong những vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất. Sau cải cách ruộng đất năm 1956 ở miền Bắc, do nhập từ Trung quốc, quá thất đức và sai lầm, ông đưa Võ Nguyên Giáp, uy tín như cồn sau Điện Biên Phủ, ra thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó định sẽ lên thế chỗ Trương Chinh làm tổng bí thư. Lúc bấy giờ ở Liên xô, Krushchev đang thắng thế với đường lối hoà bình, trong Đảng Việt Nam cũng có xu hướng ấy. Nhưng tình hình Việt Nam lại không thuận lợi để phát triển. Do cường độ cuộc chiến tranh ở miền Nam đã lên cao, đường lối quyết liệt dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã đưa cánh Lê-Duẩn/Lê Đức Thọ lên nắm quyền.
Về Võ Nguyên Giáp thì kết quả ai cũng nhìn thấy: bị quy kẻ cầm đầu chủ nghĩa xét lại và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi Lê Duẫn chết mới thôi.Còn về Hồ Chí Minh thì dường như chẳng có gì, nhưng thật sự cũng đã chịu số phận chung với tướng Giáp. Bên ngoài thì vẫn đi đây đi đó, chỉ đạo việc này việc kia… nhưng bên trong đã dần dà bị cô lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ tượng trưng, không có ảnh hưởng gì lắm tới những quyết định lớn. Theo một bài viết của Vũ Kỳ (đăng trên một số báo Văn nghệ Xuân cách đây vài năm), công lao của Hồ Chí Minh trong cuộc “tổng tấn công và nổi dậy” 1968, vẻn vẹn chỉ có bài thơ Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà… Sau khi ghi âm bài thơ này thì ông được đưa đi… nghỉ. Vũ Kỳ thuật rằng ông Hồ chỉ biết ngày giờ cuộc “Tổng tấn công và nổi dậy” nổ ra qua Đài phát thanh nghe đựơc ở nơi ông được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh – cùng với giọng đọc của ông, ra rả suốt ngày về bài văn vần nói trên. Nhiều người đã nói đến nhiều khuynh hướng đối nghịch nhau trong Đảng cộng sản Việt Nam thời chiến tranh; nhưng qua câu chuyện trên, ta thấy có hai xu hướng chính trong suốt một thời gian dài: Lê Duẩn/Lê Đức Thọ đối đầu với Hồ Chí Minh/ Võ Nguyên Giáp.
Dù sao chế độ vẫn cần sự thiêng liêng của ông để tạo ra sự thiêng liêng cho chính mình nên cái chết của ông cũng đã được cánh Lê Duẩn/Lê Đức Thọ khai thác triệt để để “xài” một cách thoải mái. Ngày chết của ông là 2-9 vì trùng với ngày quốc khánh nên người ta dời lại 3-9-1969. Trong di chúc cuối cùng, ông muốn được hoả táng và đem tro rải xuống biển hoặc chôn vào một vùng đất nào đó, người ta lại bỏ không biết bao nhiều tiền bạc ra ướp xác và xây lăng nghìn đời cho ông.
Những Lựa Chọn Chính Trị
Con người của Hồ Chí Minh được thần thánh hoá chỉ nhằm mục đích thần thánh hoá những lựa chọn chính trị của ông cho Đảng cộng sản. Những chủ đề sau đây đã trở thành kinh điển trong các khoá giảng dạy về tư tưởng của chế độ: từ thuở ấu thơ, Hồ Chí Minh đã ưu tư về tình trạng nô lệä của dân tộc, vì thế đã quyết định bỏ xứ ra đi tìm đường cứu nước; chu du khắp thế giới để tìm hiểu và so sánh, cuối cùng ông đã nhận ra chủ nghĩa Mác-Lênin thần kỳ, không những giúp dân tộc giành được độc lập mà còn mở đường đi vào cõi hạnh phúc muôn đời; Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất thực hiện được cái tất yếu ấy của lịch sử cho nên quyền lãnh đạo của Đảng đối dân tộc sẽ là vĩnh viễn và tuyệt đối.
Qua sự kiểm nghiệm của lịch sử hơn nửa thế kỷ đã qua, người ta thấy những xác tín trên đây nếu đúng một phần nhỏ thì sự cường điệu và phóng đại lại là quá nhiều.
Thí dụ như việc tìm đường cứu nước. Có lẽ không cần tranh luận về cái giả định khởi đầu này: Hồ Chí Minh là một trong rất nhiều những thanh niên yêu nước vào lúc bấy giờ. Nhưng từ đó cho rằng vì yêu nước mà ngay từ đầu đã có ý định phải ra nước ngoài để tìm giải pháp cứu nước thì điều này không nhất định phải là tất yếu. Một người Pháp nghiên cứu về Việt Nam là D. Hémery có tìm ra được một tờ đơn của Hồ Chí Minh đề ngày 15-9-1911 ở Marseille – ký là Paul Tất Thành – gửi chính phủ Pháp xin vào học trường Ecole coloniale (một loại trường tạo công chức cho các thuộc địa) và đã bị từ chối. Nhà sử học này cũng tìm ra một số thư của ông – cũng ký là Paul Tất Thành – nhiều lần gửi về nước nhờ Khâm sứ Trung kỳ hỏi thăm tin tức và chuyển tiền cho cha. Từ những tài liệu này – Biên niên tiểu sử Hồ Chí Minh (Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1993) có ghi lại phát hiện của Hémery – người ta có thể bàn luận nhiều chuyện, nhưng để đừng đi quá xa chúng ta chỉ cần ghi nhận điều hiển nhiên sau đây: ý định “cứu nước” của Hồ Chí Minh chưa chắc đã có ngay từ lúc bỏ nước ra đi, ý định ấy có thể đã đến sau những dự tính khác không thành (thí dụ không được chấp nhận vào học tại Ecole coloniale). Giả thiết này chẳng hề hạ thấp tình cảm yêu nước của ông, nhưng tất nhiên, như vậy thì sẽ rất khó để tạo ra cái chủ ý lý tưởng hoá cuộc đời ông từ nhỏ cho đến lớn. Làm sao có thể cho là “lý tưởng” cái hiện tượng Hồ Chí Minh tự gọi mình là “Paul Tất Thành” , xin đi học làm công chức cho chính quyền thực dân đồng thời nhờ cả chính quyền thực dân ấy chuyển tiền từ nước ngoài về cho cha!
Cái lập luận cho rằng sau khi đã bôn ba khắp nơi để nghiên cứu tìm hiểu, từ đó thấy chủ nghĩa Mác-Lênin tuyệt vời nên Hồ Chí Minh mới chọn – lập luận này cũng tỏ ra rất khó thuyết phục. Việc ông đi đây đó trên thế giới không đủ để chứng minh được rằng ông đã thâu đạt được tất cả những tinh hoa của nhân loại như đã được những người xưng tụng ông giả định. Khác với nhiều lĩnh tụ châu Á khác, chẳng hạn như Tôn Dật Tiên, Gandhi, ông không hề có ý định đào sâu kiến thức của mình qua các trường Đại học. Thời gian ông trở lại nước Pháp hơi lâu (1917-1923), nhưng công việc của ông ở đây vẫn đi theo cái chiều hứơng nghiêng về phần thực hành, quan hệ tiếp xúc, viết báo, vận động… Các sách ông đọc ở đây chỉ là những loại phổ thông, không có gì chứng tỏ được chiều sâu cần thiết về tư duy để nghiêm chỉnh tiếp thu chủ nghĩa Mác. Tôi đã viết ra nhiều lần nhận xét này, nay không sợ lặp lại để nói thêm một lần nữa.
Những nhà nhà ý thức hệ cộng sản có thể rất tức giận vì nhận xét ấy, nhưng tiếc thay, điều đó lại được chính Hồ Chí Minh nói ra. Ai đã đọc cuốn sách mang tên Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Tịch do chính ông viết (dưới bút danh Trần Dân Tiên) thì sẽ thấy ngay. Xin dẫn một vài đoạn ông kể về Đại hội Tours cuối năm 1920 của Đảng Xã hội Pháp:
“Người ta thảo luận rất sôi nổi (…) Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thương nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng, không tưởng,khoa học,Saint-Simon,Fourrier, Marx, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề,… giải phóng… chủ nghĩa tập thể… chủ nghĩa cộng sản, khách quan, chủ quan v.v…”
Không hiểu rõ lắm, nhưng đến lúc biểu quyết, gia nhập Đệ tam hoặc ở lại Đệ nhị Quốc tế thì ông vẫn bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế.
“Rất ngạc nhiên, Rô-dơ, làm tốc ký của Đại hội hỏi ông Nguyễn:
”Đồng chí! Bây giờ đồng chì hiểu tại sao ở Pa-ri, chúng tôi đã bàn cãi nhiều như thế rồi chứ?”
– Không, chưa thật hiểu đâu
– Thế thì sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Đệ tam quốc tế?
– Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác.Nhưng tôi hiểu rõ một điều Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu. Đồng chí đồng ý với tôi chứ?!”.
Rô-dơ đồng ý, chị cười và nói:”Đồng chí đã tiến bộ”.
Những đoạn trích dẫn trên đây đã cho chúng ta biết mấy điều quan trọng như sau:
– Hồ Chí Minh chưa biết gì về chủ nghĩa Mác với tư cách là một học thuyết triết học-chính trị. Những khái niệm rất tầm thường trong báo chí có khuynh hướng thiên tả như đấu tranh giai cấp, bóc lột, sản xuất … ông còn chưa hiểu rõ, nói gì đến những tư biện về lao động tha hoá, gíá trị thặng dư, sứ mệnh giải phóng của giai cấp vô sản…?
– Đối với chủ nghĩa Lênin ông có biết đến nhưng lại rất hời hợt. Ông chưa đọc gì về Lênin, ngoại trừ bài “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” đăng trên tờ L’humanité tháng 7 năm 1920 trước Đại hội Tours vài tháng. Có đọc nhưng thật sự ông cũng chẳng hiểu bao nhiêu, ngay cả các khái niệm căn bản.
– Ông chọn lựa đi theo Lênin hoàn toàn chỉ vì, qua Đệ Tam Quốc tế, Lênin hứa “giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập”. Đó là một chọn lựa hoàn toàn cảm tính, vội vàng, phiến diện: chủ nghĩa Lênin là một học thuyết toàn diện về cáh mạng vô sản ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển, trong đó vấn đề giải phóng các thuộc địa chỉ là một bộ phận.
Với những thiếu sót trầm trọng như vậy, làm sao có thể gọi được là nghiêm chỉnh thái độ chọn lựa nói trên của ông?
Tất nhiên không thể không xét đến chuyện về sau, cùng với thời gian hoạt động, ông đã tiếp cận lý luận cách mạng ngày càng nhiều hơn. Nhưng dù vậy đi nữa thì cũng không vì thế mà coi sự chọn lựa ấy là tuyệt đối đúng, phải trung thành để chuyển giao cho các thế hệ mai sau. Có rất nhiều lý do:
– Sau khi Lênin mất, “chủ nghĩa Mác-Lênin” đã dần dà bị Stalin hoá. Cách mạng vô sản ở những nước tư bản phát triển thoái trào, “chủ nghĩa xã hội” ở Liên xô thực chất là chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ nghĩa vô sản quốc tế chỉ là cái bình phong bảo vệ Liên xô và sự bành trường của chủ nghĩa dân tộc xô viết.
– Mục tiêu xây dựng một xã hội mác xít có nền kinh tế phát triển cho một xã hội công bằng và tư do là hoàn toàn ảo tưởng. Các nước lấy Liên xô làm mô hình đều dẫm chân trong lạc hậu nghèo nàn, còn thể chế chính trị thì chỉ là sự nối dài của chế độ phong kiến, độc tài. Là vũ khí hiệu nghiệm trong lật đổ và cướp chính quyền nhưng bất lực trong phát triển.
Sự lựa chọn đường đi của Hồ Chí Minh cho Việt Nam vì vậy là chọn lựa bất toàn: nó có thể giành được độc lập cho dân tộc qua các hình thức đấu tranh bạo lực, nhất là chiến tranh, nhưng đã thất bại toàn diện trong xây dựng hoà bình. Điều này đã được chứng thực rất hiển nhiên qua hơn nửa thế kỷ thực hành. Không thể coi đó là “cái cẩm nang thần kỳ” để đưa nhân dân đến cõi hạnh phúc nghìn năm. Cũng không thể nói bừa rằng ta phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa vì “nhân dân ta đã chọn” . Nhân dân ta chẳng biết gì về chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ để chọn. Rất nhiều người chỉ đặt lòng tin vào Bác Hồ nhưng sự chọn lựa của Bác Hồ lại chẳng có gì gọi được là khuôn vàng thước ngọc cả.
Nhìn lại mọi việc đã xảy một cách bình tâm, chúng ta thấy sự chọn lựa của Hồ Chí Minh đã bị quy định bởi cái tạng văn hoá sau đây của ông:
– Hồ Chí Minh là một người rất thực tế. Thúc đẩy bởi vấn đề bức xúc của đất nước là độc lập, ông nhận thấy sự hứa hẹn của Đệ Tam quốc tế là rõ rệt và rất triệt để, khác hẳn với những thế lực khác (Mỹ, Nhật), nên đã chấp nhận. Đối với ông chủ nghĩa Lênin thực tế lúc bấy giờ đồng nghĩa với giải phóng dân tộc là vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam. Cái tạng thực tế ấy sau này đã biểu hiện trong việc lãnh đạo của ông đối với mọi công việc: nói năng, hành động, bao giờ cũng cố tránh những cái cao xa, trừu tượng.
– Ông cũng lại là một người nhiều tình cảm và lý tưởng. Đọc Lênin, thây gãi đúng ưu tư của mình, ông đã khóc lên vì vui sướng và tin ngay. Sau này tìm hiểu thêm thấy chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn chấm dứt những khốn khổ của những người lao động bị áp bức ông càng tin hơn. Khát vọng độc lập cho dân tộc của ông cũng gắn liền với mong mỏi đấu tranh cho một xã hội công bằng, nhân đạo. Cũng chính vì vậy mà óc thực tế của ông không trở thành óc thực dụng tầm thường. Oâng chọn Lênin vì con đường giải phóng đất nước mà còn vì nhu cầu có một người thầy, người cha tinh thần theo kiểu phương Đông để thờ phụng, tôn kính
Tất cả những những thuộc tính trên đây đều đã biểu hiện trong sự chọn lựa nói trên với những ưu và những nhược điểm của nó. Những người thần phục ông chỉ nói đến những cái ưu nhưng không hề dám nói đến những cái nhược quan trọng của ông sau đây: 1) quá vội vàng, không suy xét cẩn thận, cái trí không theo kịp cái tâm 2) trung thành mù quáng với sự chọn lựa ban đầu, không học được tinh thần phản tỉnh để can đảm nhìn lại toàn diện con đường đã đi.
Những cái ưu của ông đã bộc lộ trong thời hoạt động bí mật, khi còn phải sống trong dân và phải nhờ dân che chở. Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền. Cũng nhờ thái độ ấy mà Đảng đã được đa số nông dân ủng hộ, góp sinh mạng và tài sản cho cuộc tranh đấu chung. Việc chiến thắng nhiều đế quốc hùng mạnh đã từng đến thống trị Việt Nam không đơn thuần chỉ là vấn đề thủ đoạn, chiến thuật. Trên nhiều mặt, Đảng cộng sản hơn hẳn những lực lượng chính trị yêu nước khác. Trong thời kỳ bị lệ thuộc, người dân có nhìn vào ông như kẻ “cứu độ” thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Những nhược điểm của sự chọn lựa của ông đã bộc lộ thật rõ rệt trong thời xây dựng hoà bình. Đấu tố, cải cách: phá hoại đến tận nền tảng đạo lý dân tôc. Hợp tác hoá: phản bội nông dân về ruộng đất. Chỉnh huấn: bơm máu đen vào cơ thể Đảng. Trấn áp, chà đạp trí thức văn nghệ sĩ: phản bội lời hứa về tự do văn hoá. Khoác lác về cái gọi là “dân chủ gấp triệu lần”, nhưng lại đèø đầu cưỡi cổ nhân dân một cách rất tự nhiên như những cuờng hào. Làm mất hoàn toàn động lực về phát triển kinh tế qua chủ trương nhà nước hoá toàn bộ hoạt động sản xuất. Nói chung: giam hãm dân tộc trong cái ao tù chuyền quyền độc đoán, lạc hậu nghèo nàn.
Những sai lầm trên đây không phải là những “tồn tại” hoặc những “khuyết điểm” như Đảng đã giải thích. Chúng nằm ngay trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh – hợp nhất quá vội vàng giữa hai vấn đề hoàn toàn khác nhau về bản chất: giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Chân giép lốp mà đi vào vũ trụ. Một bên là giép lốp, một bên là vũ trụ; với giép lốp thì không thể đi vào vũ trụ được, nhưng ta cứ “thừa thắng xốc tới”, vì vậy mà bao nhiêu điều tàn tệ đã xảy ra. Cái ý thức hệ mácxit-lêninít mà Hồ Chí Minh ghép vào chủ nghĩa dân tộc của ông (“từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội”) đã bộc lộ hết thực chất không tưởng và bất lực của nó. Trung thành mù quáng, căn cứ vào đó buộc thực tế phải uốn theo, Đảng cộng sản Việt Nam đã biến sự chọn lựa của Hồ Chí Minh thành vật cản đường cho sự phát triển tự nhiên của đất nước.
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Sự thất bại của mô hình lêninít về phát triển cho những nước nghèo nàn, lạc hậu là quá rõ ràng. Do sự thúc ép của hàng loạt những nhân tố trong và ngoài nước, nhất là sự sụp đổ của Liên xô và Đông Aâu, Đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận điều chỉnh đường đi, chuyển nền kinh tế “bao cấp, mệnh lệnh” hẳn sang kinh tế thị trường, mở cửa làm ăn với thê giới tư bản. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” đã ra đời trong tình hình đó như một thích ứng.
Nhưng xét kỹ thì đây không phải là sáng kiến hay ho gì lắm. Hồi Hồ Chí Minh còn sống, ông đã trả lời nhiều người rằng ông không có tư tưởng gì cả. Nếu có một người xứng đáng ở Á châu này thì đó chính là Mao trạch Đông (chính vì vậy mà Điều lệ Đảng Đại hội II đã ghi: chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao trạch Đông, phong cách Hồ Chí Minh). Đối với ông, khi chọn chủ nghĩa Lênin rồi, đó đã là tất cả, là cái “cẩm nang thần kỳ” có thể giải quyết được mọi chuyện trên đời, chẳng cần phải nhọc công tìm kiếm làm gì nữa. Nói do ông khiêm tốn có lẽ chỉ một phần, chính yếu là do có óc thực tế, ông biết rằng mình không thể nào nắm tóc mình để tự đưa lên cao được. Gán cho ông điều ông không có và không muốn có, những đệ tử của ông chỉ làm cái công việc lợi dụng như họ đã từng bất chấp di chúc của ông khi cho ướp xác và xây lăng cho ông.
Sự lợi dụng đó cũng không phải là đắc sách lắm. Nó chẳng có tác dụng làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin được phát triển hay bổ sung thêm. Đó chỉ là một bước lùi ý thức hệ đi cùng với bước lùi về kinh tế, hoàn toàn chỉ có ý nghĩa thực dụng: phải tìm cách làm dịu đi những giáo điều đã bị thời gian chứng minh là không tưởng, bất lực, sắt máu mà ai cũng biết như công hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tập thể, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, quốc tế vô sản v.v… Và trong khi né tránh bớt những khái niệm đã mất giá ấy thì một số thuộc tính khác đã được nhấn mạnh hơn, ồn ào hơn: nào là yêu nước, truyền thống, độc lập, tự chủ, nào là nhân ái, thân dân, hoà hợp… toàn là những sản phẩm phương Đông và nội địa mềm mại, dịu dàng không có gì là ngoại lai, khắc nghiệt cả. Cái thủ đoạn thao tác lý sự ở đây cũng quá rõ ràng: trong hai thành phần được Hồ Chí Minh kết hợp lại trong sự chọn lựa của mình – chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản – thì thành phần thứ nhất đã được đưa lên hàng chính diện để làm lu mờ bớt thành phần thứ hai đi.
Những người có ý hướng cải cách trong Đảng đã nhận ra thủ đoạn này. Họ đã chỉ ra được cái mưu tính thực sự của những nhà ý thức hệ chính thống: miệng nói Hồ Chí Minh nhưng hành động vẫn không khác gì Stalin và Mao Trạch Đông, chuyên chế, khắc nghiệt, giả dối, xảo quyệt. Sự chỉ trích không phải là vô căn cứ: Đảng chỉ dùng Hồ Chí Minh như cái bung xung chứ chẳng có thật lòng gì cả. Theo những người cải cách thì thật lòng là phải thay đổi triệt để phương thức lãnh đạo của Đảng: phải từ bỏ đường lối nửa vời, khập khiễng, từ bỏ hẳn chuyên chính vô sản và thực hiện dân chủ cho tương xứng với chính sách mở cửa và kinh tế thị trường. Chỉ với đường lối cải cách triệt để ấy, Đảng mới tạo ra những điều kiện tích cực để khắc phục những ruỗng nát nội tại, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh chóng. Cũng theo những người cải cách thì sự thay đổi ấy không nằm ở đâu khác ngoài tư tưởng Hồ Chí Minh đích thực. Trong hình dung của họ, thực chất của Hồ Chí Minh là phi-Stalin và phi-Mao – một Hồ Chí Minh nhân đạo dân chủ!
Dù cho có ủng hộ cải cách, chúng ta thật khó lòng mà tìm được sự khách quan trong cách lập luận trên đây: nếu Hồ Chí Minh đối với những nhà ý thức hệ chính thống chỉ là một hình ảnh giả thì đối với những người cải cách, Hồ Chí Minh cũng không thật là bao nhiêu. Sự khác nhau giữa hai quan điểm chỉ là sự khác nhau về cách khai thác hai khía cạnh trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh: một bên nghiêng về phần quốc tế và vô sản, một bên lại nghiêng về phần quốc nội và dân tộc; một bên nghiêng về phần “chuyên chính vô sản” thì bên kia lại muốn loại bỏ nó. Cả hai đều làm biến dạng đi một Hồ Chí Minh đích thực: một người Việt Nam yêu nước, nhưng cũng là một người Việt Nam yêu nước theo phương thức của Lênin, một người đã có đem lại cho đất nước sự tự chủ và thống nhất nhưng cũng lại là một người đã cho du nhập vào đất nước một học thuyết ngoại lai mà tác hại của nó còn kéo dài cho đến ngày nay chưa gỡ bỏ được.
Có thể cho rằng lập luận của những người cải cách chỉ là một cách trình bày mang tính chất kỹ thuật tranh đấu trong hoàn cảnh không có tự do tư tưởng, và nếu như vậy thì có lẽ sẽ không cần bàn luận thêm. Nhưng nếu trong chúng ta có ai thành thật tin rằng với chủ trương ấy, đất nước sẽ bước vào được một chế độ dân chủ hiểu theo nghĩa hiện đại thì chắc chắn sẽ có không ít người lên tiếng bày tỏ sự nghi ngờ: giả sử như có gạt đi hết tất cả những phần ngoại lai, ảo tưởng của Hồ Chí Minh về con đường tiến lên “chủ nghĩa xã hội” theo kiểu Lênin, thì Hồ Chí Minh vẫn không thể là ngọn cờ dân chủ được.
Ý kiến này thật đáng suy nghĩ. Mặc dù Hồ Chí Minh có nói nhiều đến dân chủ, nhưng quan niệm của ông vẫn rất xa lạ với cái nội dung mà Thời Hiện Đại đã sản sinh ra nó, đặc biệt là cái tính chất giao ước trần tục của sự phân chia và kiểm soát quyền lực, căn cứ vào đó tổ chức và quản lý đời sống công cộng. Oâng không biết gì đến tính chất độc lập của xã hội công dân đối với nhà nước, và ông cũng không hiểu tính chất quyết định làm nên nhà nước hiện đại là nhà nước phi thiên mệnh, nhà nước sinh ra từ pháp luật và tồn tại bằng pháp luật. Quan niệm của ông về mối tương quan giữa nhà nước và nhân dân vẫn là quan niệm của Nho giáo lý tưởng; cái loại nhân dân mà ông yêu mến vẫn chỉ là loại “xích tử” cần phải được dạy dỗ về luật trời và phép nước đồng thời lại phải biết lo cho họ về những chuyện “tương cà mắm muối” để sống trong yên ổn; còn nhà nước theo quan niệm của ông vẫn chỉ là thứ nhà nước của những người hiền, những bậc minh quân kiểu vua Nghiêu vua Thuấn đời xưa. Những gì ông nói về “pháp chế xã hội chủ nghĩa” hoặc “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” cũng đều dựa trên cơ sở ấy. Chúng chỉ là những ý định tốt của những đấng, những bậc bề trên.
Sở dĩ ông chọn chủ nghĩa Lênin một cách vội vã và vô điều kiện như ta đã biết có lẽ là do ông đã trực giác được tính chất “bên trên” của cách mạng vô sản lêninít trong việc làm lại nước Nga với những tàn dư nặng nề của thời trung cổ. Là người dân chủ, hiểu rõ học thuyết Mác, nhưng tình thế đã buộc Lênin làm ngược lại tất cả nhưng gì mà Mác đã hình dung ra cho xã hội tương lai: thay vì để cho giai cấp vô sản tự mình trở thành nhà nước như trong Công xã Paris 1871 thì nhà nước xô viết lại phải đảm đương công việc giáo dục và tổ chức lại cái giai cấp vô sản đã tan tác và mất hết tính chất tiền phong sau cách mạng và nội chiến. Dự định khởi đầu là một lĩnh tụ dân chủ vô sản vượt xa nền dân chủ tư sản “hàng triệu lần”, cuối cùng, Lênin thừa nhận đã phải theo gương của một ông vua của thế kỷ 18 – Pierre Đại Đế – công khai dùng độc tài để chốnglại dãman, lạchậu.
Cảm nhận của Lênin về sự không ăn khớp giữa chủ nghĩa Mác hậu hiện đại và nước Nga tiền hiện đại, Hồ Chí Minh hoàn toàn không hề biết đến, ông chỉ thấy trong những hành động độc tài của Lênin trách nhiệm tự nhiên của những minh quân thời trước, nay được hiện đại hoá qua khái niệm chuyên chính vô sản của Đảng cộng sản: đó là một nền chuyên chế nhân đức và cách mạng, một nền chuyên chính vì nhân dân chứ không phải là cái gì khác. Cái lôgích của vấn đề ở đây vẫn là cái lòng tốt từ trên ban xuống. Muốn đựơc giải phóng, muốn có quyền lực, nhân dân phải hết lòng đi theo Đảng. Đại biểu cho quyền lợi lâu dài của nhân dân, Đảng được phép làm tất cả để tạo dựng nên cuộc đời mới cho họ. Sự chuyên chính của Đảng là sự chuyên chính của đám đông, của chính nghĩa, của khoa học, của chân lý, của cách mạng. Vì vậy phải tập trung quyền lực vào Đảng một cách tuyệt đối và vĩnh viễn, không chia với bất ai, không nhân nhượng với ai một mẩu xác tín nào về chân lý, ai có ý đi ngược lại thì chỉ là những lý lẽ của bọn thù địch với nhân dân cần phải thẳng tay trừng trị.
Với một quan niệm về quyền lực sắt thép như vậy, Lênin đã dọn đường cho Stalin vắt cạn sức lực của người dân để nhanh chóng đưa nước Nga vào con đường công nghiệp hoá, còn Hồ Chí Minh cùng với Đảng cộng sản đã tích tụ được những hy sinh vô hạn của nhân dân để đánh bại nhiều thế lực xâm lược hung hãn, giành lại độc lập thống nhất cho Việt Nam. Nhưng còn về dân chủ, cùng với bao nhiêu thứ khác nữa mà các Đảng cộng sản đã hứa sẽ đem lại cho nhân dân trước đây như bình đẳng, tự do, hạnh phúc v.v… tất cả đều vẫn chỉ là những lời hứa, và tệ hơn nữa, về sau này đã biến thành những lời dối trá đơn thuần. “Chuyên chính vô sản”, “chuyên chính nhân dân” bây giờ đã trở thành chuyên chính với giai cấp vô sản, chuyên chính với nhân dân. Hiện tượng suy thoái này, vào cuối đời mình Lênin đã mơ hồ nhận ra như một bi kịch, nhưng ở Hồ Chí Minh, mọi việc dường như đã êm xuôi như ván đã đóng thuyền, cứ thế lướt sóng mà đi, từ bây giờ cho đến cả muôn đời con cháu mai sau!
Bài Học Của Người Anh Hùng
Gần một thế kỷ đã qua, cùng với những biến chuyển lớn lao trên thế giới và đất nước, hình ảnh Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam đã không còn như xưa nữa. Tính chất lý tưởng, cao vời mà Đảng cộng sản đã cố sức tô vẽ cho một Hồ Chí Minh thần thánh đã không chống đỡ nổi cho những sự việc tầm thường, sai lầm của một Hồ Chí Minh thực tế: càng cố thần thánh hoá ông bao nhiêu lại càng gây ra tác dụng ngược lại bấy nhiêu. Thoả đáng nhất là nhìn ông với những gì ông có, một cách hiện thực.
Mặc dù tên tuổi của Hồ Chí Minh gắn liền với những gì làm nên cái gọi là “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ngày nay, thiết nghĩ không nên đồng hoá tên ông với toàn bộ chế độ. Thế giới đã có những kinh nghiệm tương tự. K. Marx không phải là không có liên quan đến cái thực thể gọi là “chủ nghĩa xã hội” ở Liên xô, nhưng đổ mọi sai lầm của Liên xô lên đầu K. Marx là hoàn toàn không đúng. Mối quan hệ giữa Lênin và Stalin cũng có những điểm cần phân tích theo chiều hướng đó. Trường hợp Hồ Chí Minh đối với chế độ chính trị hiện tại ở Việt Nam có đặc biệt hơn nhưng cũng cần biết rằng hình ảnh của ông đã bị chế độ tô vẽ bằng mọi cách để huyễn hoặc quần chúng.
Cũng đừng quên rằng những gì làm nên đặc trưng của Hồ Chí Minh là vai trò của ông trong thời kỳ chống ngoại xâm, một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của thế kỷ 20, giai đoạn mà việc đấu tranh giành độc lập không thể tách rời việc chọn lựa một ý thức hệ. Cần chú ý ghi nhận đặc biệt này: trong khi vấn đề độc lập là quá rõ ràng về ý nghĩa thì vấn đề ý thức hệ trong thời hiện đại lại chứa đầy cạm bẫy và phức tạp. Những cái hay cái dở không phải lúc nào cũng hiển hiện ngay từ đầu. Những gì tạm thời chưa được chấp nhận chưa hẳn đã sai, những gì mang đến thắng lợi chưa hẳn đã là đúng. Hơn nữa, sự sai/ đúng cũng không phải lúc nào cũng như nhau: đúng lúc này có thể sai lúc khác; xem tất cả sự sai/ đúng một cách trừu tượng, bất dịch rồi căn cứ vào đó để tâng bốc quá trớn hoặc kết án nghiệt ngã – một lần là xong – là quá đơn giản. Thái độ ấy không thích hợp cho những tiếp cận khách quan về lịch sử.
Nhìn tổng thể về thế kỷ 20, tôi cho rằng Hồ Chí Minh là một anh hùng lớn của Việt Nam trong thời kỳ chống các thế lực thực dân. Những gì mà thế giới biết đến Việt Nam một cách tích cực cho đến nay vẫn là sự kiện Hồ Chí Minh đánh bại các thế lực xâm lược hiện đại, giành được độc lập cho dân tộc. Thiết tưởng dù chính kiến và tình cảm có khác nhau như thế nào đi nữa người ta cũng không thể phủ nhận được tính chất hiển nhiên của các sự kiện ấy. Có thể với nhiều người ở những nơi nào đó, cái chuyện đánh nhau giành độc lập ấy thật sự chẳng có gì quan trọng lắm đối với cuộc sống, nhưng đối với đông đảo những người Việt Nam, từ xưa cho đến nay, điều đó lại là một trong nhiều lý do để sống, không thể coi như không có.
Thời trai trẻ, tôi quý trọng Hồ Chí Minh là do ông đã tô đậm cái tình cảm tự nhiên đó trong tôi để tôi biết trách nhiệm với đất nước. Nhưng cũng chính vì tình cảm và trách nhiệm ấy mà khi tóc đã bạc rồi, tôi không còn có thể mù quáng tin vào ông nữa. Hồ Chí Minh chỉ là một nhân vật của lịch sử, còn đất nước là chuyện của muôn đời: không thể cột chặt vận mệnh đất nước vào sự chọn lựa bất toàn của một con người, dù đó là một anh hùng. Tốt nhất vẫn là ghi nhận tất cả những chuyện đúng sai của ông một cách bình thản, hy vọng chỉ có như thế mới rút ra được những bài học hữu ích cho những thế hệ đi sau.
Đối với tôi, sự chọn lựa ý thức hệ cho đất nước của Hồ Chí Minh là bài học đáng suy ngẫm hơn cả. Tất cả đều là những ý định tốt đẹp nhưng tất cả đều thiếu cái chiều sâu của sự phản tỉnh triết học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng là sự trung thành mù quáng về sau. Lầm lũi đi theo ông, giắt theo mình cái gói hành trang của những ý định tốt đẹp ấy, không biết thường xuyên quay đầu nhìn lại, không có gì bảo đảm để chúng ta không vấp lại những sai lầm của ông – đẩy cái đám đông nhân dân mà minh muốn đưa lên thiên đàng xuống chín tầng địa ngục! Nhất là những ý định tự cho là duy nhất đúng đắn, cần được bảo vệ quyết liệt bằng một định chế quyền lực cũng tự cho là duy nhất đúng đắn.
Tôi nghĩ rằng bài học ấy không chỉ đáng suy ngẫm cho những người xưng tụng ông mà còn cho cả những người chống ông nữa.
nguồn : http://www.vietnamconghoa.com/VC/HCM/HoChiMinh-LuPhuong.htm
Tags: bài11.vạchtrầncáigọilà"đạođứchcm"
Sunday March 29, 2009 - 11:10pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
BÀI 10 . Lột trần huyền thoại con người HCM
BÀI 10 . Lột trần huyền thoại con người HCM magnify
Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh
1.- HUYỀN THOẠI VỀ NGƯỜI CHA
Theo sách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, của nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội), Hồ Chí Minh 'sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân. Cụ thân sinh ra Người [họ Hồ] là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) ...đỗ phó bảng và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Đối với các con, cụ giáo dục ý thức lao động và cho học tập để hiểu 'đạo lý làm người'. Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ tiêu cực, không hợp tác với chúng. Cụ thường nói: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ', nghĩa là 'Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn'. Vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch, cho đến lúc từ trần.
Ông Nguyễn Sinh Sắc quả thật đã đỗ phó bảng năm 1901 (tân sửu) cùng một lần với Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh.. Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề bị 'bọn thống trị thúc ép nhiều lần' sau khi đỗ phó bảng mới chịu ra làm quan. Ông Sắc đã xin đi làm quan ngay sau khi đỗ cử nhân và trước khi đỗ phó bảng. Nguyên vào năm 1894, Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Năm sau (1895), ông Sắc vào Huế thi hội bị hỏng, đã xin đi làm hành tẩu bộ Hộ. Ba năm sau, ông hỏng kỳ thi hội một lần nữa vào năm 1898. Trước khi dự kỳ thi hội năm 1901, ông Sắc còn tham dự hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi hương tại Bình Định năm 1897 và Thanh Hóa năm 1900. Sau khi đỗ phó bảng trong kỳ thi hội và thi đình năm 1901, ông làm thừa biện bộ Lễ từ 1902 đến 1909, rồi đi tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5 năm đó. Từ thừa biện đi tri huyện là thăng chức chứ không phải xuống chức.
Nguyễn Sinh Sắc bị sa thải chứ không phải bị cách chức.(6) Lý do sa thải cũng không phải vì 'vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp '. Ông bị sa thải vì đã hành xử tàn bạo với dân chúng. Trong một cơn say rượu, Nguyễn Sinh Sắc đã dùng roi mây trừng phạt và đánh chết một người tù vào tháng 1-1910. Gia đình người nầy kiện lên cấp trên. Dù tri huyện Nguyễn Sinh Sắc đã chối cãi rằng không phải vì trận đòn của ông mà người kia chết, ông vẫn bị triều đình ra sắc chỉ ngày 17-9-1910 phạt đánh 100 trượng. Hình phạt nầy được chuyển đổi qua hạ bốn cấp quan lại và sa thải.(7) Lý do chuyển đổi hình phạt để Nguyễn Sinh Sắc khỏi bị đánh đòn có lẽ nhắm giữ thể diện của một quan chức triều đình, và nhất là vị nầy lại là người có học vị cao. Ông Sắc nghiện rượu từ khi còn ở Huế. Chị của Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), vào Huế thăm cha năm 1906. 'Bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đã mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà '.(8) Do đó, năm sau bà bỏ Huế ra Nghệ An trở lại, mà không sống với cha.
Phải chăng câu: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ ' (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn) là do những cán bộ cộng sản bịa ra, rồi gán cho ông Nguyễn Sinh Sắc để đả kích chế độ quân chủ? Hay phải chăng vì bị đuổi ra khỏi ngành quan lại nên Nguyễn Sinh Sắc mới bất mãn và thốt lên câu: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ ' (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Nếu không, Nguyễn Sinh Sắc hăng hái xin đi làm quan làm gì, và sau nầy con ông, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) còn gởi thư đến viên Khâm sứ Pháp tại Huế xin cho ông một chức quan nhỏ nữa.
Ngày 26-2-1911, Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông ở lại Sài Gòn một thời gian, dạy chữ Nho cho nhà báo Diệp Văn Kỳ,(9) rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Từ đó, ông không bao giờ trở ra Nghệ An. Ông sống lang thang ở miền Nam bằng nghề đông y, và nghề viết liễn đối cho dân chúng. Gần cuối đời, ông đến định cư tại làng Hội Hòa An, Sa Đec, và từ trần ngày 29-11-1929.(10)
Khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức và sống lang thang nghèo khổ ở miền Nam, con ông ta là Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, ra nước ngoài năm 1911, đã viết thư từ New York ngày 15-12-1912 cho viên khâm sứ Pháp tại Huế tha thiết '... cầu mong Ngài [chỉ khâm sứ Pháp] vui lòng cho cha tôi [cha của Thành tức ông Sắc] được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài...'(11)
Vậy huyền thoại về người cha của Hồ Chí Minh là một người yêu nước, chống đối chính quyền Pháp nên bị cách chức, là chuyện hoàn toàn bịa đặt do Ban Nghiên cứu Lịch sử trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra nhắm là tăng giá trị cho lãnh tụ của họ.
Tưởng cũng nên thêm ở đây một phát hiện của ông Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội hiện nay. Trong sách Trong cõi của Trần Quốc Vượng, có bài 'Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)'. Phần cuối của bài nầy cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Ông Trần Quốc Vượng viết: 'Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm'. (12)
2.- HUYỀN THOẠI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam đều viết rằng ngày 5-6-1911, thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Amiral Latouche-Tréville để ra đi tìm đường cứu nước. Sau đây là lời trong sách Lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội:
'Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến 'tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái'. Sau khi rời Huế vào Phan Thiết ... ...Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài 'xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào'...'(13)
Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng gần giống như thế: '... Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về 'giúp đỡ đồng bào' đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người [HCM] đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.'(14)
Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau:'...Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta...'(15)
Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đã có nhiều người viết sách về hoạt động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng họ đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí Minh dùng một tên khác tự ca tụng mình là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến.
Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích tìm đường cứu nước, nhưng trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã tìm được những chứng liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí Minh ra đi không phải để tìm đường cứu nước, mà chỉ vì lý do kinh tế gia đình.
Trong bài 'Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa', hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá thư của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp, xin hai ông ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Địa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Đông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá thư nầy hoàn toàn giống nhau. Đó là: 'Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn...'(16)
Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.
Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. Vì sinh kế gia đình, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Địa), hoặc cho phụ thân ông.
Điều nầy là chuyện bình thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Hơn nữa, điều nầy còn có nghĩa là Nguyễn Tất Thành không phải ra đi tìm đường cứu nước. Việc ra đi tìm đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị.
3.- HUYỀN THOẠI CUỘC SỐNG ĐỘC THÂN GIẢN DỊ
Hồ Chí Minh cũng như ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương luôn luôn đề cao rằng ông ta suốt đời sống độc thân, không lập gia đình, để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông.
Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, khi hành nghề nhiếp ảnh ở Paris, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã gởi thư tỏ tình với cô Bourdon ngày 10-5-1923. Sau vài cuộc gặp gỡ và thư từ qua lại, cô Bourdon viết thư ngày 11-6-1923 cự tuyệt mối tình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh còn trưng dẫn nhiều tài liệu cho thấy khi qua Moscow, nhà cầm quyền Liên Xô đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc một 'người vợ'.(17)
Đến Quảng Châu (Trung Hoa), Nguyễn Ái Quốc, lúc đó lấy tên là Lý Thụy kết hôn với một người phụ nữ Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1926. Bà nầy bị thất lạc sau cuộc chiến Quốc Cộng ở Trung Hoa năm 1927.(18) Theo một tài liệu khác, thì trong thời gian nầy, Lý Thụy còn sống với một phụ nữ Trung Hoa thứ nhì là Lý Huệ Khanh, em của Lý Huệ Quần. Lý Huệ Quần là vợ của Lâm Đức Thụ, một đồng chí của Lý Thụy. Tài liệu nầy giải thích rằng Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Lý Thụy là theo họ của Lý Huệ Khanh cho dễ hoạt động.(19) Khi cảnh sát Hồng Kông bắt Lý Thụy ngày 6-6-1931 tại thị trấn Cửu Long, gần Hồng Kông, ông đang sống với một phụ nữ Trung Hoa tên là Li Sam. Khi Lý Thụy đến Vân Nam, tướng Long Vân (Lung Yun) đã tìm cho ông một nhân tình người Tàu.(20)
Từ năm 1930, ở Hồng Kông, Lý Thụy dạy chính trị cho Nguyễn Thị Minh Khai tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông phương của Quốc tế cộng sản. Sau một thời gian, hai người trở thành vợ chồng, và khi qua Liên Xô tham dự đại hội cộng sản quốc tế ngày 25-7-1935, hai người công khai sống chung.(21) Năm 1944, Hồ Chí Minh về hoạt động tại vùng Pắc Bó, Cao Bằng. Ở đây, theo sử gia và nhà hoạt động chính trị Trần Trọng Kim, ông Hồ sống chung với bà Đỗ Thị Lạc, bí danh 'chị Thuần', và sinh hạ một người con gái.(22)
Sau cuộc sống chung tạm bợ với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử cho đến năm 1954, ông Hồ về Hà Nội. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần, bộ chính trị đảng Lao Động đã đưa một cô gái thuộc sắc tộc Nùng ở Cao Bằng là Nông Thị Xuân (có sách viết Nguyễn Thị Xuân) về phục vụ Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, ông Hồ khoảng 65 tuổi và bà Xuân có lẽ khoảng trên dưới 22 tuổi, khá xinh đẹp: 'Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa'.(23) Năm sau, bà Xuân sinh hạ một người con trai được đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau một thời gian chung sống, Hồ Chí Minh sa thải bà Xuân. Viên bộ trưởng công an Hà Nội là Trần Quốc Hoàn đã hiếp dâm bà Xuân, rồi cho người thủ tiêu một cách tàn bạo.(23)
Trong thời gian nầy, đảng Lao Động còn có ý định đưa cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh Thanh Hóa, về Hà Nội để làm vợ Hồ Chí Minh. Cô Phương Mai đòi công khai hóa cuộc hôn nhân giữa hai người, thì bị từ chối, nên cô rút lui.(24) Năm 1959, Đào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng Cộng Sản, Phó thủ tướng chính phủ Trung Quốc sang Việt Nam nghỉ dưỡng. Một bộ trưởng trong chính phủ Hà Nội đã nói riêng với Đào Chú rằng Hồ Chí Minh muốn tái hôn với một người vợ Quảng Đông. Đào Chú rất hoan hỷ giúp đỡ, nhưng thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai đã thận trọng yêu cầu phía Việt Nam xem xét vấn đề cẩn thận. Hội nghị do Lê Duẩn triệu tập đã đi đến quyết định là phải bảo vệ hình tượng Hồ Chí Minh, nên việc ông Hồ muốn tái hôn với một phụ nữ Quảng Châu đã không thành.(25) Hồ Chí Minh cho Đào Chú biết ông muốn tái hôn, có nghĩa là ông Hồ tự thú nhận đã kết hôn một lần nào đó rồi.
Như thế huyền thoại thứ ba về Hồ Chí Minh, hy sinh cuộc sống cá nhân, sống độc thân để toàn tâm toàn ý lo việc nước, là một câu chuyện bí mật giấu đầu lòi đuôi. Hồ Chí Minh có vợ là một chuyện bình thường, nhưng bản thân Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản trước sau luôn luôn che đậy việc nầy để lừa bịp nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới. Kết hôn, lập gia đình là điều chẳng có gì xấu xa, nhưng xử sự tàn bạo với những người đã từng sống với mình, che đậy việc kết hôn, lừa bịp trắng trợn mọi người là điều mà không một nền luân lý nào chấp nhận.
Sau khi Hồ Chí Minh từ trần, trong lời kêu gọi đưa ra ngày 3-9-1969, đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng CSVN) đã viết: '...Cuộc đời của Người là một tấm gương chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần đoàn kết, của đạo đức giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư...'(26) Hãy nhìn vào cách sống của Hồ Chí Minh để biết ông có phải là người 'giản dị, khiêm tốn' hay không?
Trước hết, chế độ Hà Nội tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh sống trong một ngôi nhà sàn bằng gỗ. Nghe chữ 'nhà sàn', người Việt thường liên tưởng đến những ngôi nhà của người miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng một thước, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc, hoặc liên tưởng đến những nhà sàn của một số cư dân ven sông hay dọc các kênh đào. Những ngôi nhà sàn nầy rất đơn sơ, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến nhiều người tưởng tượng rằng ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh có lẽ cũng thế, và cũng tưởng rằng Hồ Chí Minh sống rất bình dân. Thực tế hoàn toàn không như vậy. Những du khách đã từng viếng ngôi nhà sàn của ông Hồ, hoặc những ai đã từng nhìn ngôi nhà sàn nầy qua phim ảnh, rồi so sánh với nhà sàn của người miền núi hoặc của những người sống ven sông, sẽ có cảm nghĩ khác. Ngôi nhà sàn của ông Hồ có vẻ giản dị một cách cố ý, lại rất sang trọng, xây dựng bằng loại gỗ cực tốt, trang bị đầy đủ theo tiện nghi thời đại, có người chăm sóc cẩn thận, và gần như là nhà nghỉ mát mùa hè, hoặc nơi ông đón tiếp du khách. Như vậy ngôi nhà sàn của ông Hồ chỉ là loại trang trí mắc tiền.
'Áo quần lên sân khấu rất quan trọng: luôn luôn giản dị (áo quần màu chàm). Đối với Hồ cũng như Staline, Mao, hoặc Kim Nhật Thành, sự giản dị được nghiên cứu kỹ lưỡng. Áo quần cắt may thô sơ theo kiểu Kroutchev hoặc Ceaucescu, biểu tượng của một thế hệ lãnh đạo cộng sản. Điều đặc biệt của Hồ trong giới lãnh đạo cộng sản là Hồ đi dép lốp (trên nguyên tắc cắt từ lốp xe hơi) ... Còn gì ăn ảnh hơn dù là tiền chiến hay hiện đại 'Bác' Hồ đi dép lốp trên màn ảnh.'(27)
Hồ Chí Minh duy nhất chỉ để lộ một sở thích phàm tục rất người, đó là ông thích hút thuốc thơm Hoa Kỳ, đặc biệt là Camel hay Lucky Strike. (28) Không biết đây là dàn kịch để chứng tỏ ông ta cũng bình thường như mọi người, hay quả thật ông ta thích hút thuốc Mỹ. Dầu sao, cuộc sống của ông Hồ không giản dị như người ta tưởng.
Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh) đã viết trong phần đầu sách: 'Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được?'(29) Một người dùng một cái tên khác viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt trong quyển sách lại kể lể tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết nên xếp ông ta vào loại người gì đây?
Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết: 'Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.'(30). Lời nầy cho thấy Hồ Chí Minh muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân tộc, nhưng không được dân chúng hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ 'bác'. Ở đây lại thấy ông Hồ thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế tự.
Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, cựu đại tá quân đội cộng sản Hà Nội, cựu phó tổng biên tập báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh công khai tự xưng là 'bác' năm 1945 trước quần chúng, lúc đó ông khoảng 55 tuổi.(31) Nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những người già cả, đáng tuổi ông, cha, chú, anh, chị mình mà xưng bác thì xin khỏi bàn về tư cách của 'bác'.
Chẳng những thiếu kính trọng với người đang sống, Hồ Chí Minh còn tỏ ra thiếu lễ độ đối với những người trước ông hàng mấy trăm năm. Hãy đọc những câu thơ của Hồ Chí Minh qua bài 'Ngẫu hứng' ông viết vào dịp viếng đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1226-1300) khoảng trước năm 1950:
'Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công.
Tự phong mình là anh hùng đã là chuyện lạ, gọi một vĩ nhân của lịch sử sống cách đây hơn 600 năm bằng 'bác' là một sự vô lễ chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Khi Quốc sử quán triều Nguyễn trình Khâm định Việt sử thông giám cương mục lên vua Tự Đức (trị vì 1847-1883) duyệt, trong khung cảnh xã hội vua là thiên tử (con trời), nhà vua đã phê bình nhiều nhân vật lịch sử, đôi khi với lời lẽ gay gắt, nhưng chưa bao giờ nhà vua có ngôn ngữ sỗ sàng thiếu lễ độ như Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh tưởng rằng gọi Trần Hưng Đạo bằng 'bác' là có thể tự nâng mình lên ngang tầm với người xưa, nhưng ngược lại những lời nầy cho thấy hố cách biệt lớn lao giữa một vị thánh và một kẻ tự phụ hợm mình. Chẳng những thế, người Việt Nam xưng tụng đức Trần Hưng Đạo là thánh, nên cách xưng hô của họ Hồ xúc phạm đến cả niềm tin của dân chúng Việt Nam. Nếu nói rằng bài thơ nầy là 'thơ khẩu khí', thì càng thấy 'khẩu khí' của Hồ Chí Minh chẳng khiêm cung tý nào.
Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc, ông có quyền sống một cách tiện nghi đầy đủ để làm việc; thậm chí ông có quyền tận hưởng mọi lạc thú trên đời sau khi đã dày công cực khổ tranh đấu; ông có quyền lực to lớn của một chủ tịch nhà nước độc tài; ông có thể vượt qua luật pháp ra lệnh sinh sát mọi người; ông có thể làm bất cứ việc gì ông muốn dưới chế độ độc tài; nhưng nói rằng họ Hồ là người 'giản dị khiêm tốn' là điều hoàn toàn sai sự thật.
4.- HUYỀN THOẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Hồ Chí Minh luôn luôn hô hào đoàn kết dân tộc. Một trong những khẩu hiệu ưng ý của họ Hồ là 'đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công.'(33) Sau đây là các cách thức đoàn kết của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.
* Đoàn kết là tiêu diệt tất cả mọi người bất đồng chính kiến bằng bất cứ giá nào để giành quyền lực: Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu từ Vladivostok (viễn đông Liên Xô) đi Quảng Châu (Trung Hoa) với vai trò thông ngôn của phái bộ cố vấn Borodin bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên trong thời kỳ liên minh quốc cộng đầu tiên ở Trung Hoa. Đến Quảng Châu, Lý Thụy bắt đầu gây dựng cơ sở đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam uy tín nhất ở Trung Hoa thời bấy giờ là Phan Bội Châu. Để giành lấy tổ chức của Phan Bội Châu, một trong những việc làm đầu tiên của Lý Thụy ở Quảng Châu là bán tin tức cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi ông Phan đi từ Hàng Châu đến Thượng Hải ngày 1-7-1925.(34) Từ đó, những người hoạt động cách mạng ở Trung Hoa thiếu người lãnh đạo, dần dần ngả về theo nhóm cộng sản của Lý Thụy. Chẳng những chỉ một mình Phan Bội Châu, mà những cán bộ cách mạng nào không theo phe Lý Thụy, đều bị Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt trên đường về Việt Nam hoạt động.(35)
Trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, các đảng viên cộng sản áp dụng đúng sách vở của Lý Thụy, rải truyền đơn tố cáo Quốc Dân Đảng sẽ tấn công Bắc Kỳ để Pháp đề phòng và lùng bắt các đảng viên QDĐ. Nguyễn Thị Giang đã đưa các tờ truyền đơn nầy cho Nguyễn Thái Học xem, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn không tin là những đảng phái cách mạng Việt Nam cùng chống Pháp lại có thể hại nhau như thế.(36)
Năm 1945, Nhật Bản thất trận và đầu hàng Đồng Minh. Tại hội nghị Potsdam (thị trấn ngoại ô Berlin), đại diện các nước Đồng Minh đưa ra tối hậu thư cho Nhật, trong đó quyết định về vấn đề Đông Dương như sau: quân đội Nhật sẽ bị giải giới do người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) ở phía bắc vĩ tuyến 16, và do người Anh ở phía nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư không nói ai sẽ cầm quyền sau khi quân đội Nhật bị giải giới. Lợi dụng khoảng trống chính trị nầy, Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, gồm nòng cốt là đảng viên cộng sản, tổ chức cướp chính quyền. Việt Minh đã giết hại và thủ tiêu vô số người yêu nước không đi theo chủ trương đường lối của Việt Minh. Những tên tuổi lớn đều bị Việt Minh giết hại như Phạm Quỳnh (1945), Ngô Đình Khôi (1945), Tạ Thu Thâu (1945), Bùi Quang Chiêu (1945), Phan Văn Hùm (1945), Trương Tử Anh (1946), Huỳnh Phú Sổ (1947), Khái Hưng (1947)... Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, bà hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(37) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã.
Như vậy, ý nghĩa thứ nhất về việc đoàn kết và liên hiệp đối với Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là sự sáp nhập hay tiêu diệt tất cả các phe nhóm hay cá nhân đối lập với Cộng Sản bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì, để chỉ còn lại những ai chịu 'đoàn kết' chấp nhận vâng phục cộng sản. Chỉ khi nào thất thế, gặp nhiều trở lực, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản mới sử dụng cách đoàn kết thứ nhì.
* Đoàn kết là tạm thời nhượng bộ, liên minh giai đoạn để vượt khó khăn: Cũng trong năm 1945, sau khi lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9, gồm đại đa số đảng viên cộng sản, Hồ Chí Minh gặp nhiều trở ngại về phía người Pháp theo chân người Anh đến Đông Dương, và từ từ tiến ra Bắc; về phía người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) đang từ biên giới tiến xuống Hà Nội theo thỏa ước Potsdam; và về phía những đảng phái cách mạng Việt Nam như Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đành phải nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 11-11-1945, thực chất là đảng Cộng Sản rút vào hoạt động bí mật.(38) Họ Hồ tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1, và thành lập chính phủ liên hiệp ngày 2-3-1946 gồm cả những lãnh tụ Việt Cách và Việt Quốc như Nguyễn Hải Thần, Trương Đình Tri, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Nghiêm Kế Tổ ... Ngay sau khi ký kết được với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3, tạm hòa hoãn với Pháp, và mua chuộc được các tướng lãnh Trung Hoa để họ rút quân về nước, nghĩa là vừa thoát qua được khó khăn, Hồ Chí Minh thẳng tay loại bỏ ngay các lãnh tụ không phải là Việt Minh ra khỏi chính phủ, khủng bố, giết hại nhân viên các đảng phái quốc gia, nuốt chửng những kẻ đã từng liên hiệp với họ.
Sách lược nầy được ứng dụng thêm một lần nữa với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ngày 20-12-1960. Lúc đầu, mặt trận nầy gồm một số đảng viên cộng sản làm nòng cốt và một số người chống chế độ Ngô Đình Diệm. Sau đó, những người không thuộc đảng Cộng Sản bị loại dần cho đến khi mặt trận chỉ còn lại những người của Cộng Sản Đảng mà thôi.
Những người trước đây bất đồng chính kiến, nhưng khi gặp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, chịu khuất phục và chịu đi theo họ Hồ thì được sử dụng trong những giai đoạn và hoàn cảnh cần thiết. Ví dụ Trần Huy Liệu (1901-1969), chủ bút Đông Pháp Thời Báo (1925-1927), chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn, bị Pháp bắt đày Côn Đảo trong năm năm. Mãn hạn tù, ông ra bắc năm 1935 và gia nhập đảng Cộng Sản năm 1936. Năm 1939, ông bị Pháp bắt trở lại, đày đi Sơn La, rồi an trí năm 1942 ở Thái Nguyên, và Yên Bái. Năm 1945, ông trốn về Hà Nội làm báo Cứu Quốc của Việt Minh trong vòng bí mật. Khi Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9, ông được Hồ Chí Minh giao làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Minh đầu tiên. Ông được cử làm trưởng phái đoàn Việt Minh gồm cả Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (tức nhà thơ Huy Cận) vào Huế chứng kiến việc thoái vị của vua Bảo Đại tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945.
Hồ Chí Minh giao Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền không phải vì tín nhiệm Trần Huy Liệu mà vì họ Hồ cần uy tín chính trị của ông. Trần Huy Liệu vốn là chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt Quốc Dân Đảng tại Sài Gòn. Hồ Chí Minh sử dụng Trần Huy Liệu để tuyên truyền cho cái gọi là chính sách đoàn kết đảng phái của Việt Minh, nhắm lôi cuốn quần chúng theo họ, nhất là lôi cuốn các đảng viên Quốc Dân Đảng. Lúc bấy giờ do những hy sinh to lớn của Nguyễn Thái Học và các đồng chí, Quốc Dân Đảng rất có uy tín chính trị trên toàn quốc. Khi đã qua khỏi giai đoạn cần thiết, năm 1946, Hồ Chí Minh cử Trần Huy Liệu làm uỷ viên thường trực Quốc Hội. Cuối cùng, năm 1953, Trần Huy Liệu trở thành trưởng ban Nghiên cứu Sử Địa của nhà cầm quyền cộng sản, một chức vụ không có quyền hành.
Không chỉ riêng trường hợp Trần Huy Liệu, mà còn nhiều nhân vật tiếng tăm khác cũng rơi vào trường hợp ông, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Phương Thảo (tức tướng Nguyễn Bình), Nguyễn Hữu Thọ... Như thế, ý nghĩa thứ nhì của việc đoàn kết với Hồ Chí Minh có nghĩa là quy thuận họ Hồ, theo đuôi đảng Cộng Sản và làm bù nhìn trong những thời điểm cần thiết cho họ Hồ hay nói cách khác là chỉ được họ Hồ liên minh giai đoạn. Thử kiểm điểm danh sách những lãnh tụ cộng sản từ trước đến nay, chỉ những người gia nhập đảng Cộng Sản ngay từ khi bước vào hoạt động chính trị, thuộc thành phần trung kiên mới nắm giữ thực quyền. Những người đã theo các đảng khác rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản, hoặc những người ngoài đảng mà có công lao, chỉ giữ những chức vụ tượng trưng mà thôi, như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình ...
* Đoàn kết là sự vâng phục tuyệt đối lãnh đạo đảng: Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội. Trong di chúc, Hồ Chí Minh nhắn nhủ với các đảng viên đảng Cộng Sản: '...Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình...'(39) Vậy sự 'đoàn kết nhất trí' trong nội bộ đảng là gì?
Trong sinh hoạt đảng Cộng Sản Việt Nam, khi các cấp lãnh đạo đưa ra những vấn đề thảo luận, nếu một đảng viên trình bày những ý kiến cấp tiến mới mẻ, thì được lãnh đạo gọi là 'thành phần xét lại'. Ngược lại, có những đảng viên không muốn thực hiện các cuộc cải đổi quan trọng, thì được đánh giá là 'bảo thủ, trì trệ'. Nói một cách khác, bất cứ ai có ý kiến gì cũng đều bị chụp mũ là tả khuynh hoặc hữu khuynh, lệch lạc hoặc xét lại, trừ ý kiến của lãnh đạo đảng. Đảng viên chỉ còn một giải pháp duy nhất là gật đầu vâng lệnh thượng cấp.
Như vậy, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam là sự tuyệt đối vâng phục và trung thành của đảng viên đối với lãnh đạo đảng. Nếu không vâng phục lãnh đạo đảng, kết quả nhẹ nhất là sự trù dập, kỷ luật, và nặng nhất là thanh trừng.
Ở Việt Nam có một câu thành ngữ thời danh minh họa sự đoàn kết của Cộng Sản: 'Đảng gọi thì dạ; đảng không gọi thì không dạ. Đảng gọi mà không dạ không được; đảng không gọi mà dạ cũng không được.' Nói trắng ra, ý nghĩa thứ ba của sự đoàn kết theo quan điểm của đảng Cộng Sản có nghĩa là phải chịu sự lãnh đạo độc tài, độc đảng, và tuyệt đối vâng phục trung kiên với đảng Cộng Sản. Điều nầy đưa đến một kết quả tại hại là các đảng viên bị xơ cứng trí óc, sẽ không còn sáng kiến để làm việc.
Điểm đặc biệt là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản chấp nhận một người trước đây chống đối họ, nhưng khi đã theo họ thì phải vâng phục tuyệt đối. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận những người trước đây đã từng hoàn toàn phục tùng họ, mà sau đó lại có ý muốn cải cách theo chiều hướng nhân bản, dân chủ, tự do, dù vẫn tuân phục đảng và chủ nghĩa xã hội. Những người nầy cũng bị coi là kẻ thù và chắc chắn bị loại bỏ. Đó là trường hợp Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương ...
Có lẽ cũng nên thêm một điểm nữa rất dễ thấy trong lịch sử, là đảng CSVN không bao giờ tôn trọng những hiệp ước quốc tế do họ ký kết. Hiệp ước là giải pháp thỏa thuận giữa các bên về một cuộc tranh chấp, cũng có nghĩa là một sự giải hòa giữa các bên, bước đầu để tiến dần dần đến sự đoàn kết thống nhất. Đối với đảng CSVN, ký kết hiệp ước chỉ là đánh lừa dư luận, tạm ngưng tranh chấp, nhắm dưỡng sức và củng cố nội bộ, để rồi tiếp tục bành trướng. Ví dụ rõ nét nhất là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Đảng CSVN ký kết hai hiệp ước nầy với sự chứng kiến của các nước trên thế giới, mà họ còn trắng trợn vi phạm, xé bỏ hiệp ước, huống gì là sự cam kết giữa họ với những cá nhân hay những đoàn thể người Việt khác.
Do đó, hòa giải, liên hiệp và đoàn kết với cộng sản trước sau cũng sẽ bị cộng sản kiếm cách khống chế và hoàn toàn mất tự do. Những ai muốn hòa hợp, liên hiệp, đoàn kết với cộng sản, nên nhớ câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh với Daniel Guérin trong một lần gặp mặt ở Paris: '... Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều sẽ bị bẻ gãy...'(40)
* Đoàn kết là vắt chanh bỏ vỏ: Lúc Việt Minh cộng sản phát động chiến tranh chống Pháp, nhiều người yêu nước đã đứng lên hưởng ứng công cuộc kháng chiến. Chẳng những nhiều thanh niên lên đường theo tiếng gọi của quê hương, mà những người ở lại hậu phương cũng cố gắng đem tài vật ủng hộ công cuộc đấu tranh chống Pháp. Việt Minh đã xưng tụng những người nầy là những nhàø 'hằng tâm hằng sản'(có lòng và có của). Một khi tạm đứng vững, và nhất là khi được Trung Cộng viện trợ ào ạt từ năm 1951 trở đi, cộng sản Việt Nam mở cuộc cải cách ruộng đất từ 1953, và quay mặt với những kẻ đã nuôi dưỡng mình từ khi còn trứng nước, coi họ như kẻ thù, tố cáo những nông dân ' hằng tâm hằng sản' là địa chủ, đánh đập, hành hạ và giết họ mà không cho chôn xác. Một tác giả đã từng sống gần Hồ Chí Minh, kể lại rằng bà Nguyễn Thị Năm ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nhà là nơi căn cứ giao liên, đã nuôi nhiều cán bộ cao cấp qua lại, từ Hồ Chí Minh, đến Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang); thế mà bà là một trong những người đầu tiên bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, và đặc biệt đã kêu cứu đến tận tai Hồ Chí Minh mà ông lờ đi, để cho người ta giết bà.(41) Như vậy, với cộng sản, đoàn kết có nghĩa là lợi dụng một chiều theo giai đoạn, xong việc rồi 'vắt chanh bỏ vỏ'. Việc 'vắt chanh bỏ vỏ' được thấy rõ nhất trong việc Hồ Chí Minh đối xử với bà Nông Thị Xuân. Hồ Chí Minh sống với bà Xuân như vợ chồng, và có với bà nầy một đứa con trai. Khi đã chán bà Xuân, ông Hồ để cho viên bộ trưởng công an là Trần Quốc Hoàn tự do hiếp dâm bà Xuân, rồi giết vứt xác bà Xuân ngoài đường để ngụy tạo một tai nạn.(42) Đối xử với người đã từng sống với mình và có với mình một đứa con, mà còn tàn bạo như vậy, thử hỏi Hồ Chí Minh còn có thể nói là chuyện tình nghĩa đoàn kết với ai được? Từ vụ cải cách ruộng đất năm 1953 đến vụ án 'chống đảng' do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ khởi xướng ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 1960, vì muốn bảo vệ địa vị của riêng mình, Hồ Chí Minh đã im tiếng không can thiệp, để mặc cho các đồng chí thân thiết của ông ta bị thanh trừng, tù đày, hay tàn sát.(43) Chẳng những Hồ Chí Minh, mà Võ Nguyên Giáp cũng thế. Những tướng lãnh và sĩ quan thân cận của viên tướng nầy lần lượt bị thanh trừng mà ông ta không dám lên tiếng để bảo vệ sự thật. Như vậy, chẳng những trên phương diện chính trị đảng phái, mà cả trên phương diện cá nhân, đoàn kết với những người cộng sản chỉ có nghĩa là để cho họ lợi dụng xong rồi bị loại bỏ.
5.- HUYỀN THOẠI GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Trong Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu cho biết rằng năm 1920 (canh thân), ông gặp hai nhân vật Liên Xô tại Bắc Kinh là Grigorij Voitinski và một viên tham tán tòa đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh. Khi Phan Bội Châu ngỏ ý muốn nhờ Liên Xô giúp đỡ đưa du học sinh Việt Nam sang Liên Xô du học, viên tham tán nầy chỉ vẽ cặn kẽ, và hứa rằng Liên Xô sẽ giúp đỡ tận tình với điều kiện là phải chấp nhận '...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ... ra sức làm những sự nghiệp cách mạng.' Viên tham tán nầy yêu cầu Phan Bội Châu dùng tiếng Anh viết sách kể hết chân tướng người Pháp. Có thể những đòi hỏi của người Liên Xô về 'tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản' làm Phan Bội Châu e ngại, nên ông tránh mặt, không gặp lại người Liên Xô. Phan Bội Châu giải thích rằng ông không viết được tiếng Anh, nên ông 'không lấy gì trả lại thịnh ý ấy'.(44) Đây là một lối nói xã giao, chứ thật ông Phan có thể vượt qua vấn đề ngôn ngữ bằng cách nhờ những người khác giúp làm thông ngôn, bằng chứng là Phan Bội Châu không biết tiếng Nhật, nhưng cũng đã nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu tiếp xúc với hai chính trị gia Nhật Bản là bá tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki). Ngoài ra, giả dụ trong trường hợp Phan Bội Châu thật lòng muốn tiếp xúc, chắc chắn toà đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh có những thông ngôn Hoa ngữ, có thể viết bút đàm với Phan Bội Châu.
Ở đây cần chú ý một điểm là tại Nga, cuộc cách mạng cộng sản diễn ra vào ngày 7-11-1917.(45) Đảng Cộng Sản Liên Xô phải tốn một thời gian từ 1917 đến 1922 để tiêu diệt nhóm Bạch Nga bảo hoàng còn lại ở trong nước, ổn định tình hình nội bộ, nắm quyền thật vững chắc, mới bắt đầu bành trướng thế lực ra nước ngoài vào đầu đầu thập niên 20. Khi đó, Liên Xô phải đối đầu với các cường quốc Âu Mỹ đã tiến chiemn các thuộc địa từ thế kỷ 19. Do đó, nhu cầu vận động các nước thuộc địa nổi lên tranh đấu chống lại các cường quốc thực dân đang là kẻ thù của Liên Xô, nằm trong sách lược nầy. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc được cộng sản quốc tế sắp đặt cho qua Liên Xô để thụ huấn trở thành một thứ 'chiến sĩ tiên phong' trong việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Á Châu, và cũng chính từ đó mà Nguyễn Ái Quốc đã hình thành quyển Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925.
Nếu viên đại diện Liên Xô tại Bắc Kinh yêu cầu Phan Bội Châu phải chấp nhận '...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ...' thì những người Việt khác theo Đệ tam Quốc tế Cộng sản, như Hồ Chí Minh, chắc chắn đều phải làm thế.
Điều đó có nghĩa là khi đến Liên Xô đầu năm 1924, Hồ Chí Minh, lúc đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chắc chắn phải tuyên thệ thực hiện những điều nầy mới được Liên Xô chấp nhận, và cũng có nghĩa là ngay từ đầu, Hồ Chí Minh chịu làm tay sai cho Liên Xô, biến nước Việt Nam thành một nước cộng sản chư hầu của Liên Xô, và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cho Liên Xô, nghĩa là kiếm cách đánh phá những địch thủ của Liên Xôââ. Hồ Chí Minh và những người cộng sản che giấu rất kỹ điều nầy. Phải chăng do tâm lý ẩn ức vì cả cha lẫn con đều bị thất bại trên đường quan lại của Pháp, không xin được vào học trường Thuộc Địa Paris để ra làm quan cho Pháp, mà Hồ Chí Minh cam tâm làm như thế, để đạt cho được tham vọng quyền lực mà ông hằng khao khát?
Sau khi làm việc trong phái bộ Borodin tại Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc không được Đệ tam quốc tế tín nhiệm nên bị giữ lại ở Liên Xô một thời gian, từ 1933 đến 1938. Trước khi thế chiến thứ nhì bùng nổ (1939), tại viễn đông, Nhật Bản hoành hành mạnh, tranh giành những quyền lợi của Liên Xô ở Mãn Châu, và Triều Tiên, nhất là từ khi giới quân phiệt kiểm soát được chính quyền ở Nhật Bản, và thi hành chính sách bành trướng đế quốc.(46) Đệ tam quốc tế cộng sản liền sai Nguyễn Ái Quốc trở qua Trung Hoa vào đầu năm 1939 nhắm thực hiện những điệp vụ chống Nhật ở Á Châu. Để thấy rõ bản chất tay sai cộng sản quốc tế của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, xin đọc đoạn sau đây của bộ sử do chính các tác giả cộng sản Hà Nội viết:
'Sau một thời gian nắm tình hình cách mạng Việt Nam và Đông Dương, ngày 10-5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Hồ Chủ tịch triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó. Các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài đã tham gia Hội nghị.
'Hội nghị phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, vạch rõ triển vọng của cuộc chiến tranh thế giới và khẳng định: Nếu sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, xuất hiện nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên là Liên Xô, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần nầy sẽ làm cho cách mạng nhiều nước thành công, sẽ có thêm nhiều nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Đảng nhấn mạnh phải xem cách mạng Việt Nam như một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, lúc nầy là một bộ phận của phong trào dân chủ chống phát xít, đặc biệt là phải tích cực ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc.'(47)
Gần đây, trong sách Viết cho mẹ & quốc hội, một đảng viên cao cấp của cộng sản, ông Nguyễn Văn Trấn tiết lộ rằng tên đảng Lao Động do chính Stalin đặt,(48) và cũng chính Stalin đã thúc đẩy Hồ Chí Minh thực hiện cuộc cải cách ruộng đất ngay từ cuộc gặp gỡ năm 1950.(49) Sau đó Mao Trạch Đông áp lực, huấn luyện cán bộ, và gởi chuyên viên sang tổ chức, theo dõi, thi hành cuộc cải cách ruộng đất.(50) Cuộc cải cách nầy phát khởi năm 1953 đã sát hại hàng trăm ngàn nông dân ở miền Bắc.
Vì đã mật kết đi theo con đường cộng sản Liên Xô, Hồ Chí Minh dùng chiêu bài giải phóng đất nước và độc lập dân tộc để dẫn cuộc chiến tranh chống Pháp thành cuộc chiến tranh giữa hai thế lực tư bản và cộng sản, lồng trong khung cảnh nội chiến giữa hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản. Trong cuộc xâm lăng miền Nam từ năm 1960, Lê Duẩn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, đã từng nói: 'Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...'(51)
Như vậy, trước sau như một, Hồ Chí Minh và đảng CSVN luôn luôn kiên định vai trò 'lính đánh thuê' cho Liên Xô và Trung Quốc bằng xương máu của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã dồn các thành phần quốc gia về phía phải kiếm cách liên kết với Pháp, và sau nầy với Hoa Kỳ, để chận đứng nạn cộng sản trên đất nước chúng ta, và để khỏi bị cộng sản Việt Nam tiêu diệt.
Với sự hỗ trợ tích cực của Liên Xô và Trung cộng, cuộc bành trướng của cộng sản tại Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: (1)thiết lập các căn cứ tại Việt bắc từ đầu thập niên 40 và cướp chính quyền năm 1945; (2) dùng chiêu bài giải phóng và độc lập để kêu gọi dân chúng chống Pháp, và chiếm lĩnh một nửa đất nước, từ vĩ tuyến 17 trở ra bằng hiệp định Genève năm 1954; (3) Hồ Chí Minh và đảng CSVN tiếp tục mở cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam từ năm 1960 cho đến năm 1975.
Khi chưa chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức cuộc cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách nầy được tiếp tục năm 1954 cho đến năm 1956, gây kinh hoàng cho nhân dân miền Bắc, giết chết hàng trăm ngàn người, và nhất làm làm tê liệt mọi sức đối kháng của người dân, làm hỏng hết các giềng mối luân lý đạo đức gia đình, con cái tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau, anh em tố nhau, bà con không dám nhìn mặt nhau. Một sĩ quan cấp tiểu đoàn trưởng quân đội cộng sản Hà Nội tuyên bố: 'Ông ấy [chỉ Hồ Chí Minh] biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương.'(52)
Về phương diện văn hóa, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Cộng Sản dẹp bỏ hết các tôn giáo, tịch thu hết sách vở cũ, chỉ cho nhà trường dạy về chủ nghĩa cộng sản, lịch sử cộng sản, những nhà văn nhà thơ cộng sản. Đề thi văn chương ở đại học và trung học chỉ quanh quẩn những bài thơ của Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Từ năm 1956 đến năm 1958, các văn nghệ sĩ không ca tụng chế độ cộng sản bị đem ra đấu tố và tù đày trong vụ án gọi là Nhân văn giai phẩm. Sau đó, các văn nghệ sĩ muốn sống còn phải im hơi lặng tiếng, viết theo chỉ thị của đảng. Cuộc đánh phá các văn nghệ sĩ nầy còn nhắm mục đích lâu dài là chận trước các tiếng nói đối lập để họ khỏi cản trở công cuộc xâm lăng miền Nam. Văn nghệ sĩ vốn là những người nhạy cảm trước nỗi đau khổ của đồng bào, nếu để họ tự do ngôn luận, thì khó có thể thi hành kế hoặch xâm lăng mà không bị họ phát hiện hoặc phản đối.
Về phương diện kinh tế, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gọi là giải phóng, nhưng đã loại bỏ nền kinh tế tự do, để trói buộc dân Việt vào chính sách kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô và Trung Cộng, tịch thu hết đất đai, dồn nông dân vào các hợp tác xã nhà nước, quốc hữu hóa các công ty xí nghiệp của tư nhân. Vì người dân không được quyền sáng kiến làm ăn sinh sống, không được tự do kinh doanh, nên nền kinh tế Bắc Việt hoàn toàn suy sụp và kiệt quệ dưới chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh phải nhờ đến viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng. Người ta kể rằng một cây kim may cũng phải nhờ Trung Cộng viện trợ. Càng nhờ vả thì càng mất tự do, và phải trả bằng nguyên vật liệu như than đá, quặng sắt ... mà cho đến nay vẫn còn chưa trả hết.
Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tiếp tục áp dụng chiêu bài giải phóng dân tộc với miền Nam sau năm 1954. Năm 1972, người Hoa Kỳ bắt tay được với Trung Cộng, thay đổi chiến lược chính trị ở Á Châu, tìm cách rút quân ra khỏi Việt Nam. Hiệp định Paris năm 1973 đã đưa Việt Nam Cộng Hòa vào tư thế lúng túng. Cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn hùng hậu của Liên Xô và Trung Cộng, tiến chiếm miền Nam năm 1975.
Những chính sách áp dụng ở miền Bắc năm 1954 lại được đem ra áp dụng ở miền Nam. Về tôn giáo, văn hóa, chính trị, cộng sản buộc miền Nam đi vào quỹ đạo cộng sản. Về kinh tế, lần nầy cộng sản trúng vố bở vì từ năm 1954 đến năm 1975, miền Nam càng ngày càng phồn thịnh, dân chúng giàu có. Cộng Sản lấy được 16 tấn vàng của kho bạc miền Nam, tịch biên tất cả những nhà tư sản mà Hà Nội gọi là 'mại bản',(53) đổi tiền nhiều lần để kiểm soát tình hình lưu thông tiền tệ, quốc doanh tất cả công ty xí nghiệp... Miền Nam là vựa thóc của đất nước, nhưng dưới chính sách kinh tế chỉ huy của cộng sản, dân chúng miền Nam đói rách nghèo khổ cùng cực hơn bao giờ cả.
Trong bản tuyên bố ngày 2-9-1945 mà cộng sản gọi là bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết: 'Chúng [chỉ thực dân Pháp] lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân...Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến do dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn...'(54)
Nay chúng ta ứng dụng những lời do chính tay Hồ Chí Minh viết, và từ miệng Hồ Chí Minh đọc, vào chính sách của chế độ cộng sản ở Việt Nam, như nhà tù nhiều hơn trường học, như quốc hữu hóa đất đai, công ty xí nghiệp, đánh tư sản ... thì nghiệm ra rằng 'chúng' là cộng sản chứ chẳng ai khác.(55)
Do những thay đổi ở Trung Cộng khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền năm 1978 sau khi Mao Trạch Đông từ trần (1976), do chủ trương Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Tái cấu trúc) của Gorbachev khi ông lên làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1985, do những biến động ở Đông Âu năm 1989, sự sụp đổ của đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1991, và nhất là do cuộc cách mạng thông tin liên lạc bằng hệ thống vi tính và mạng lưới viễn thông quốc tế, đảng Cộng Sản Việt Nam không còn bưng bít và gò ép được dân chúng nữa, nên bắt buộc đảng Cộng Sản phải thay đổi về kinh tế, nhưng vẫn độc tôn về chính trị. Khẩu hiệu 'Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc' trước đây trong thời chiến tranh, nay trở thành khôi hài với dân chúng và mỉa mai đối với những người đã chết trong cuộc chiến vì khẩu hiệu nầy, khi nhà cầm quyền Hà Nội tha thiết mong mỏi Hoa Kỳ trở lại Việt Nam vào giữa thập niên 90.
Theo nghĩa tầm nguyên, giải phóng là cởi mở ra cho tự do, nghĩa là đưa một cái gì từ tình trạng bị giam hãm kềm kẹp đến tình trạng được thoát ly và tự do, tức từ chỗ xấu đến tốt hơn. Đàng nầy, với đảng CSVN, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có nghĩa là biến Việt Nam thành chư hầu của Liên Xô, Trung Quốc, nô lệ hóa dân chúng Việt Nam theo tín điều cộng sản, đặt nhân dân Việt Nam dưới chế độ độc tài, độc đảng, bóc lột, phá hoại, đầy ải và bần cùng hóa nhân dân một cách có hệ thống, có bài bản của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, khác với những cuộc chiến tranh giải phóng trước đây, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản là trường hợp đầu tiên và duy nhất đã lợi dụng tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, khát vọng độc lập tự do của nhân dân, đưa ra chiêu bài giải phóng đất nước, kêu gọi dân chúng theo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 'đế quốc' Mỹ, để áp đặt một chế độ độc tài bóc lột khắc nghiệt hơn cả ngoại bang thực dân. Lợi dụng khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam để tước đoạt tự do của người Việt Nam, sử dụng xương máu của giống nòi để phục vụ quyền lợi đảng phái riêng tư và quyền lợi của quốc tế cộng sản, là một tội lỗi lịch sử ngàn năm bia miệng .
6.- HUYỀN THOẠI 'TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH'
Sau năm 1975, Việt Nam suy sụp dần dần với chính sách kinh tế chỉ huy và sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Cao điểm của sự suy sụp là việc ông Đỗ Mười, uỷ viên bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, thực chất là đánh 'tư sản' năm 1978, ngăn sông cách chợ, cấm cản tiểu thương, đày ải dân thành thị đến các vùng hoang địa, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Campuchia, chỉ để tránh sức mạnh của người dân trong nước. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thần cán bộ đảng viên sa sút theo.
Để kiếm cách tuyên truyền cổ võ dân chúng hưng phấn trở lại, nhà nước cộng sản Hà Nội đánh bóng hình tượng Hồ Chí Minh, đã chết từ năm 1969 trước khi miền Nam bị cưỡng chiếm. Họ tổ chức cuộc 'rước đuốc bác Hồ' xuyên Việt, từ lăng mộ Hồ Chí Minh ở Hà Nội lên các tỉnh miền núi Bắc Việt, và quan trọng nhất là từ Hà Nội tiến xuống các tỉnh phía Nam vào khoảng tháng 10-1980, giống như kiểu rước đuốc của nhà độc tài Hitler năm 1933 ở Nuremberg (Đức).
Ánh đuốc bập bùng lung linh gây không khí huyền hoặc theo nghi lễ cổ xưa cũng không làm tan đi băng giá lạnh lùng trong tâ
Tags: bài10.lộttrầnhuyềnthoạiconngườihcm
Sunday March 29, 2009 - 11:01pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
Việt Cộng Là Ai , CCRD PHẦN 1 & 2
Việt Cộng Là Ai , CCRD PHẦN 1 & 2 magnify
Thưa quý vị,
Trang này dành để chúng ta lột mặt nạ những tên Việt Cộng láo khoét và hành động của họ, để cho đời sau tránh đi vào vết xe đổ .
-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*
Cuộc cải tạo nông nghiệp tại Miền Bắc
Võ Trường Sơn
* Lời nói đầu:
Những biến động chính trị đang diễn ra trong
nội bộ các nước Cộng sản là những biến cố
lịch sử đánh dấu một giai đoạn đấu tranh mới
của các dân tộc bị áp bức.
Một số học giả Tây phương quen giải thích các
biến cố trên bằng những lập luận cho rằng
các chế độ Cộng sản đang chuyển mình trên
tiến trình dân chủ hoá khiến cho các lực lượng
đối lập có cơ hội vùng lên chống đốị Lập
luận trên mới chỉ là "một nửa của sự thật"
(Pseudo-truth), và một nửa của sự thật ở đây
là một sự sai lầm, một sự lẫn lộn nguyên
nhân với hậu quả.
Đúng ra, người ta phải nói rằng các lực lượng
bị áp bức đã vùng lên đấu tranh và đẩy tập
đoàn Cộng sản thống trị tới chỗ phải nhượng
bộ từng bước một, tạm thời thoả mãn một
cách hạn chế những đòi hỏi dân chủ của nhân
dân bị áp bức và mặc dầu bị bắt buộc phải
nhượng bộ, tập đoàn Cộng sản thống trị chỉ
chịu lùi bước theo chiến thuật giai đoạn, trong
khi đó vẫn luôn luôn tìm cách quật lại đối
phương để giành lại ưu quyền chuyên chính, bất
cứ khi nào chúng có thể làm được chuyện đó.
Một khía cạnh đặc biệt thứ hai của các biến
động chính trị nói trên làcuộc đấu tranh của
các lực lượng bị Cộng sản áp bức đều mang
tính chất phi quy ước. Tuy hoàn cảnh đấu tranh
của mỗi dân tộc và trình độ ý thức của mỗi
lực lượng đấu tranh có khác nhau, nhưng bản
chất chỉ là một. Một đặc điểm thứ ba của
các biến động nói trên là trong các cuộc đấu
tranh phi quy ước ngày nay, các chế độ Cộng sản
đang ở thế thụ động, và các lực lượng quần
chúng đấu tranh đang ở thế chủ đô.ng. Nghĩa là
các lực lượng này đang xoáy sâu vào những
điểm yếu của Cộng sản để làm cho chúng càng
ngày càng suy yếu thêm và cuối cùng bị toàn dân
lật đổ. Vấn đề đặt ra ở đây là các thế
lực tài phiệt Tây phương vẫn có khuynh hướng
chỉ nhìn thấy "một nửa của sự thật", quen lẫn
lộn nguyên nhân với hậu quả. Và như thế, liệu
họ có nhảy xổ vào để cứu nguy và tiếp sức
cho các tập đoàn Cộng sản thống trị phục hồi
sức mạnh để tiếp tục củng cố sự đàn áp hay
không? Đó là điều mà ta sẽ thảo luận trong một
dịp khác.
Trong phạm vi bài này, những biến động chính trị
hiện nay nhắc nhở chúng ta nhớ lại những cuộc
khởi nghĩa tại Ponan, Budapest, vụ án Hồ Phong ở
Trung Quốc, và vụ "Trăm Hoa Đua Nở" trên đất
Bắc cùng thời với cuộc khởi nghĩa của nông
dân ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, cách đây 33 năm. Đó
là những cuộc đấu tranh phi quy ước của các
lực lượng bị áp bức, nhưng, hoàn cảnh đấu
tranh thời đó đã đặt các lực lượng chống
đối ở thế bị động, cô lập và bị đập tan.
Mặt khác, ở Việt Nam lúc đó, Việt cộng cũng
sử dụng hình thái chiến tranh phi quy ước để
đàn áp, tiêu diệt các lực lượng chống đối
vì lúc đó chúng đang nắm ưu thế chủ đô.ng.
Nội dung của bài nghiên cứu này và loạt bài
nghiên cứu sắp tới nhằm trình bày hình thái
chiến tranh phi quy ước mà Việt cộng đã sử
dụng để củng cố bộ máy thống trị miền Bắc,
mở rộng địa bàn "ỷ dốc" Miên-Lào trong tiến
trình xâm chiếm miền Nam.
Những chủ đề quan trọng mà chúng ta sẽ thảo
luận trong loạt bài nghiên cứu sắp tới gồm có:
- Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt.
- Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh.
- Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị
xâm chiếm miền Nam.
- Mặt trận Lào trong chiến lược xâm chiếm
miền Nam.
- Đoàn hậu cần chiến lược 559 trên đường
mòn Hạ Làọ
- Cuộc chiến tranh không tập tại Bắc Việt.
Vì khuôn khổ giới hạn của một bài báo, mỗi
chủ đề sẽ được trình bày làm hai, ba kỳ. Ví
dụ, chủ đề "Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc
Việt" sẽ được trình bày với những tiết mục
chính sau đây:
- Những vấn đề căn bản của cuộc Cải tạo Nông
nghiệp.
- Bối cảnh cuộc cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Chiến lược và sách lược của Việt cộng trong
cuộc cải tạo Nông nghiệp.
- Diễn tiến của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Hậu quả của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
Trong bài phân tích này chúng ta sẽ lần lượt
điểm qua một cách tổng quát ba tiết mục đầu
tiên nói trên.
Ị Những Vấn Đề Căn Bản Của Cuộc Cải Tạo
Nông Nghiệp
Vào tháng Mười năm 1987, nông dân tại một số
tỉnh thuộc đồng bằng Cửu Long đã biểu tình
chống đối Việt cộng vì những hành động tham
nhũng và cướp giật ruộng đất do cán bộ Việt
cộng chủ xướng nhân cuộc "cải cách ruộng đất
năm 1983".
Ngày 9 tháng 11, 1987, hàng trăm nông dân từ các
tỉnh miền Tây đã tổ chức biểu tình chống
chính quyền Việt cộng ngay tại Sài Gòn. Pháp
Tấn Xã tại Sài Gòn mô tả một tình trạng náo
loạn chưa từng thấy kể từ năm 1975. (Thật ra,
kể từ khi Việt cộng trục xuất các phóng viên
báo chí và truyền hình ra khỏi Việt Nam vào năm
1976 thì truyền thông Tây phương hầu như mù tịt
về tình hình Việt Nam. Mãi cho tới 1986, 1987, khi
Nguyễn Văn Linh cho phép báo chí, truyền hình Tây
phương trở lại Việt Nam trong mục đích ve vãn dư
luận quốc tế, thì báo chí mới bắt đầu nhìn
thấy một số hiện tượng bề ngoài với một
mức độ hạn chế).
Những biến cố nói trên tương đối ôn hoà nếu
ta so sánh với vụ Khởi nghĩa của Nông dân Quỳnh
Lưu bị đàn áp đẫm máu vào năm 1956, vụ thanh
niên Nam Bộ tập kết đốt phá bót Cảnh sát bờ
hồ Hà Nội, vụ đảng viên Việt cộng tìm nhau
để chém giết trả thù nhân vụ Cải tạo Nông
nghiệp đưa đến biện pháp "sửa sai". Lý do
chính khiến có sự khác biệt về mức độ bạo
động là vì hoàn cảnh chính trị đã khác nhiều;
năm 1983, bạo quyền Việt cộng đã cực kỳ suy
yếu, ruỗng nát so với năm 1956, và nhân dân ta
ở trong Nam đã được tổ chức và hướng dẫn
để đề kháng một cách hữu hiệu hơn thời gian
30 năm trước. Do đó, Việt cộng đã không dám
thực hiện các biện pháp mạnh tay trong chính sách
ruộng đất. Mặc dầu hai cuộc Cải cách Ruộng
đất có khác nhau ở mức độ sắt máu; nhưng,
những vấn đề căn bản của cả hai cuộc Cải cách
Ruộng đất của Việt cộng chỉ là một: Đó là
các vấn đề Bản Chất, Mục Tiêu và Hậu Quả.
1. Bản Chất Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Quan niệm Cải cách Ruộng đất không phải là quan
niệm mới mẻ. Montesquieu, trong tác phẩm "Espuis des
Lois" năm 1748, có viết rằng: "Trong một nền dân
chủ tốt, chia đều đất đai chưa đủ; cần phải
chia nhỏ ruộng đất như người La Mã đã làm"
(xem tác phẩm "Espuis des Lois", quyển V, chương VI).
Trong các chế độ dân chủ, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là hữu sản hoá dân nghèo để
giúp họ có cơ hội phát triển và xây dựng đời
sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm
chủ, dù chỉ là một mảnh đất nhỏ.
Trong các chế độ Cộng sản, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức
xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối
với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu,
trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa,
cuốc, xẻng, cối xay lúa, cối giã gạo, v.v.... Nói
theo ngôn ngữ Việt cộng, đó là tiến hành cuộc
Cách Mạng Quan Hệ Sản Xuất trong đó có việc thay
đổi quyền làm chủ đất đai, quyền làm chủ tư
liệu sản xuất, và thay đổi quan hệ giữa
người với người (tức là tương quan chủ -
thợ). Có lẽ sự thay đổi tương quan chủ - thợ
có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với số
phận của tất cả mọi nông dân từ bần nông
đến chủ đất, vì nó biến họ vĩnh viễn thành
những người thợ vô sản phục vụ cho chủ nhân
ông Cộng sản, trong một tương quan na ná hoặc
tệ hơn một nông nô dưới chế độ phong kiến.
Một hệ luận quan trọng của việc phế bỏ quyền
tư hữu là sự tập trung đất đai vào tay nhà
nước trong chế độ Cộng sản, thay vì chia nhỏ
đất đai như trong một chế độ dân chủ. Điều
này không phải là điều tình cờ phù hợp với
mục tiêu của Cải cách Ruộng đất mà ta đề cập
dưới đâỵ
2. Mục Tiêu Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Mục tiêu tối hậu của việc phế bỏ quyền tư
hữu đất đai là để giành giật khả năng và
quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập
trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ
chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí
thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị
vì họ bị khống chế bởi tên chủ Việt cộng qua
hệ thống hộ khẩu và chế độ bình công chấm
điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức...
lúc nào cũng còn đói, nếu họ tuân theo những quy
luật do "tên chủ" Việt cộng đề rạ Trong tay họ
không có tài sản, không có tiền, không có vũ
khí; họ bị cô lập bởi hệ thống công an, bởi
thế; về phương diện quyền lực chính trị, mỗi
nông dân là một con số không trong chế độ
Cộng sản. Trong một chế độ dân chủ, một nông
dân dù nghèo rớt cũng còn có một chút vốn kinh
tế vì họ còn làm chủ được tấm thân của họ,
nghĩa là họ còn có một chút quyền lực chính
tri.. Đem gom góp hàng triệu những quyền lực
chính trị nho nhỏ đó, người ta có thể tạo nên
một thế lực tương đối lớn để tự bênh
vực mình.
Trong chế độ Cộng sản, nếu đem gom góp một
triệu con số không (của quyền lực chính trị của
mỗi nông dân), ta cũng vẫn chỉ được một con
số không thiệt tọ Hiểu được như thế, ta
hiểu được hậu quả của cuộc cải cách ruộng
đất đối với việc củng cố bộ máy đàn áp
kềm kẹp của Việt cộng ở miền Bắc.
3. Hậu Quả Ngắn Hạn Của Cuộc Cải Tạo Nông
Nghiệp
Qua sự tập trung đất đai, phương tiện sản
xuất và đoàn ngũ hoá nông dân thành giai cấp
nông nô sau cuộc Cải tạo Nông nghiệp, Việt cộng
hoàn toàn nắm hết tài nguyên, lương thực, khởi
sự xây dựng các nông trường quốc doanh, chuẩn
bị đạo quân xâm lược Lào và miền Nam Việt Nam
(Việt cộng gọi là lấy lương thực phục vụ
chiến trường "C" và "B"). Hậu quả trước mắt
của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là giúp Việt cộng
xây dựng cơ sở vật chất để tiến hành chiến
tranh. Hậu quả pháp lý của cuộc Cải tạo Nông
nghiệp là việc định chế hoá các cơ cấu quyền
lực địa phương để tiến hành đấu tranh phi quy
ước trong nội bộ chống lại nhân dân miền
Bắc. Nói một cách rõ hơn, các hợp tác xã nông
nghiệp tại địa phương chính thức trở thành các
cơ sở ban phát quyền lợi, thực thi chính sách
và Bí thư Hợp tác xã, Bí thư Chi bộ xã là
những kẻ có toàn quyền sinh sát tại nông thôn
đã biến thành các cường hào ác bá dưới
triều đại xã hội chủ nghĩa của "Rợ Hồ". Tóm
lại, những hậu quả ngắn hạn và trước mắt là
những điều có lợi cho việc củng cố quyền
lực chính trị của giai cấp thống trị Cộng sản.
Nhưng, hậu quả về lâu về dài là một vấn đề
khác.
4. Hậu Quả Dài Hạn Của Cải Tạo Nông Nghiệp
Là một vấn đề mà Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông,
Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh các Đảng Cộng
sản không nhìn thấy, hoặc vì ảo tưởng trên mây
nên đã nhìn sai và tiên đoán saị Đó là những
vấn đề liên quan đến năng suất lao động,
năng suất đất đai, cơ cấu sản xuất và thị
trường, đưa đến những bế tắc trong nền kinh
tế của mọi quốc gia Cộng sản. Vì chủ quan nghĩ
rằng quyền lực chính trị có thể giải quyết và
"cả vú lấp miệng em" đối với mọi bài toán
trong xã hội, các cấp đầu lãnh Cộng sản, và
Việt cộng nói riêng, đã bị vỡ mặt khi những
bế tắc kinh tế vượt ra ngoài khả năng kiểm
soát của Đảng và các cơ cấu quyền lực chính
trị địa phương biến thành các "sứ quân" tự
chuyên, tự quản nền kinh tế quốc giạ Nhưng,
đây là những chi tiết mà ta sẽ thảo luận khi đi
sâu vào các bài nghiên cứu sắp tớị
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là cuộc Cải
tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt đã diễn ra trong
hoàn cảnh nàỏ Để trả lời câu hỏi này, loạt
bài nghiên cứu sắp tới sẽ trình bày về bối
cảnh Địa lý, Kinh tế, Xã hội và Chính trị của
giai đoạn 1949-1957 được tóm lược trong Phần II
dưới đâỵ
IỊ Bối Cảnh Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền Bắc có thể
được coi như bắt đầu kể từ Sắc luật Giảm
tô số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 và chính sách
thuế nông nghiệp của chính quyền kháng chiến
nằm trong toàn bộ của chính sách thuế khoá gồm
cả thuế Công-Thương nghiệp, sát sinh, Lâm-Thổ
sản, xuất nhập cảng, v.v... ra đời từ ngày 1
tháng 7 năm 1951 do Sắc luật số 42/SL của Hồ Chí
Minh.
Chính sách thuế Nông nghiệp là phát súng khởi
đầu cho các chiến dịch "phân mảnh định hạng"
các loại ruộng, "bình sản lượng", "bình diện
tích" mỗi mảnh đất để làm căn bản tính thuế,
sau đó tiến lên chiến dịch "chống phản động",
"đấu tranh giảm tô" kéo dài tới năm 1954 chỉ
được tạm chấm dứt khi chiến trường Điện
Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và đưa đến
Hiệp định Genèvẹ Sau đó, Việt cộng miền Bắc
đã tạm ngưng cuộc đấu tranh Cải cách Ruộng
đất tới cuối năm 1955, đầu năm 1956, vì ba lý
do:
- Việt cộng còn bận lo đón tiếp bộ đội
miền Nam tập kết ra Bắc.
- Việt cộng còn phải đối phó với phong trào di
cư và cuộc đàn áp dân Ba Làng v.v....
- Việt cộng còn phải che dấu thủ đoạn tàn bạo
để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên
quốc tế, và ổn định tình hình nội bô..
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh Cải cách Ruộng
đất bắt đầu từ cuối năm 1955 đầu 1956 trong
đợt phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
Cải cách Ruộng đất và lên đến mức độ tàn
bạo nhất trong đợt cải cách Điện Biên Phủ.
Để cho cuộc Cải cách Ruộng đất được nhanh
chóng và đồng đều, tại những vùng mới tiếp
thu và đồng bằng sông Nhị Hà, Việt cộng đã
tiến hành hai cuộc "đấu tranh giảm tô" và "đấu
tranh Cải cách Ruộng đất" vào một lần. Thể
thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống
như đấu tranh giảm tô, chỉ kháng ở mức độ
tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng
do sự "càn đi, quét lại" và "tích tỷ lệ" mà ta
sẽ được giải thích trong những bài phân tích
sắp tớị
Điều đáng chú ý là chính sách Cải cách Ruộng
đất ở miền Bắc đã rập khuôn chính sách Cải
cách Ruộng đất của Trung Quốc mà không có sự
chế biến cho hợp với hoàn cảnh và tình trạng
nông nghiệp ở nước tạ
Các cán bộ Việt cộng có nhiệm vụ trong cuộc
Cải cách Ruộng đất đã học tập kinh nghiệm của
cán bộ Cộng sản Trung Quốc trong cuộc Cải cách
Ruộng đất ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch
Đông. Tại Trung Quốc, gia cấp địa chủ điển
hình còn mang nặng tính chất phong kiến lãnh
chúạ Ngoài đồng ruộng thẳng cánh cò bay, một
địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ
vàquân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp cũng
như để đàn áp, bóc lột nhân dân. Trong cuộc
Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, một số lớn
những người bị gán là "địa chủ đại gian đại
ác" thường chỉ có mấy mẫu ruộng hoặc ít hơn,
nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn,
và có thể trở thành chống đối Đảng và Nhà
nước.
Vậy, yếu tố giành giật độc quyền chính trị
là yếu tố quan trọng nhất của Cải cách Ruộng
đất, và do đó, Cải cách Ruộng đất là cơ hội
ngàn năm một thuở để Việt cộng đánh quỵ cả
thế lực tinh thần của Giáo hội Công giáọ
Nhiều vị Linh mục Công giáo cũng bị bắt, bị tra
khảo và bị giết, trong đó có Cha Thanh, đã từng
là Linh mục giảng huấn tại Tiểu Chủng viện Ba
Làng năm 1949-1950, một vị chân tu, hiền lành và
đạo đức cũng bị sát hại một cách dã man trong
tù.
Một cuộc cải cách tàn bạo, dã man nhất trong
lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc do chính
người Việt Nam để đàn áp chính người Việt
Nam, tại sao có thể thành công được? Câu trả
lời nằm trong chiến lược và sách lược của
Việt cộng trong Cải cách Ruộng đất.
IIỊ Chiến Lược Và Sách Lược Cải Cách Ruộng
Đất
Những cuộc nghiên cứu qua các nhân chứng của
cuộc cải cách ruộng đất đã cho người ta một
tầm nhìn sâu và rộng đối với quan niệm chiến
lược của Việt cô.ng. Một số cán binh Việt
cộng xâm nhập từ Bắc vào Nam và sau đó ra hồi
chánh đã cung cấp những dữ kiện vừa phong phú,
vừa chi tiết và cụ thể giúp ta nhìn thấy những
đường đi, nước bước có lớp lang của Việt
cộng, những chuẩn bị rất công phu, những mưu
mô lừa bịp tinh vi, che mắt ngay cả những đảng
viên Việt cộng từng vào sinh ra tử trong kháng
chiến.
Hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, Kỹ sư Thuỷ Lợi,
thuộc Bộ Thuỷ Lợi Bắc Việt, trước kia đã
tham gia cải cách ruộng đất tại Xóm Chuối tỉnh
Ninh Bình, tóm tắt quan niệm chiến lược của
Việt cộng như sau:
"Theo tài liệu của Đại hội Đảng chuẩn bị cho
cải cách ruộng đất thì việc đấu tranh giai
cấp giữa địa chủ và nông dân đã được đặt
ra ngay từ khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Họ nhận xét rằng từ 90% đến 95% dân chúng
Việt Nam là nông gia chuyên nghiệp, và trong số
này thì chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông,
còn đa số đều là kẻ làm thuê, làm mướn, tá
canh, tá điền; do đó, nếu muốn làm cách mạng
xã hội, họ phải lôi cuốn được khối đa số
đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền
lợi để sau này nắm chặt khối đa số đó
bằng sắt máu...".
Lời tiết lộ ở trên chẳng những tóm tắt quan
niệm chiến lược mà còn phát hiện cả sách
lược của Việt cô.ng. Như ta đã từng định
nghĩa:
Chiến lược là toàn bộ một kế hoạch nhằm
vận dụng sức mạnh căn bản để đánh trúng địch
bằng những đòn chí tử cho tới khi nó gục ngã.
Và sách lược cũng là toàn bộ một kế hoạch
như chiến lược, duy có một điểm khác là để
đạt mục tiêu, toàn bộ kế hoạch sử dụng những
mưu kế để lừa địch, dụ khị địch và qua mặt
đi.ch.
Khi quan niệm rằng đa số dân Việt Nam là nông
dân và đa số nông dân là khối người nghèo và
cần phải lôi cuốn được đa số đó, Việt
cộng đã nói lên được khía cạnh chiến lược
của vấn đề. Sau hết, khi chủ trương phải thỏa
mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để sau
này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu,
Việt cộng nói lên khía cạnh sách lược tức là
phương án lừa bịp và dụ khị, qua mặt đi.ch.
Lừa bịp, dụ khị và qua mặt địch như thế nào
thì đó là những chi tiết kế hoạch sẽ được
trình bày trong nhiều bài sắp tới....
Những giai đoạn "đấu tranh" trước 1954
Đại Cương:
Trong kế hoạch nắm vững toàn bộ nông thôn miền
Bắc, Cộng sản phải tiến qua nhiều giai đoạn,
theo một kỹ thuật tinh vi bắt đầu bằng cuộc
Cải cách Ruộng đất được Đảng mệnh danh là
"một cuộc cải cách long trời lở đất" mà hậu
quả là khiến cho người dân trở thành một đoàn
người khiếp sợ Đảng, đến độ bảo sao cắm
đầu nghe vậy, không dám oán than ngay cả với
người thân trong gia đình.
Nhưng, bắt đầu một cách rất nhẹ tay, năm 1951,
Cộng sản Việt Nam lập ra một tứ thuế nông
nghiệp đánh vào tất cả những ai có ruộng,
vườn trồng trọt được hoa màụ Đến năm
1952-1953 là giai đoạn áp dụng chính sách giảm tô
mà thí điểm là khu Tư như Hoàng Hoá, Phú Thiện
và vùng Trung du Bắc Việt như Bắc Giang, Phú Thọ,
v.v... Chính sách giảm tô đã làm cho hàng ngũ địa
chủ kinh sợ, xuống tinh thần. Các tầng lớp phú
nông, trung nông lo lắng, và sốt sắng tham gia
cách mạng để cầu an vì sợ bị xếp hạng vào
thành phần địa chủ. Trái lại, các tầng lớp
bần nông, cố nông thì sung sướng, thỏa mãn.
Đến năm 1954, chính sách được áp dụng ở Nghệ
An và Trung du Bắc Việt, mặc dầu ở mức tương
đối tàn bạo, nhưng so với năm 1956 hãy còn
được coi là... ôn hòạ
Từ 1954 đến 1955, chính sách Cải cách Ruộng
đất tạm ngưng tiến hành vì Việt cộng đặt
nặng vấn đề chống phong trào di cư, tranh thủ
quần chúng để giữ dân ở lạị
Tới giữa năm 1955, cuộc di cư hoàn tất, việc
phân chia lãnh thổ đã rõ ràng, chính quyền Cộng
sản bắt đầu áp dụng chính sách Cải cách Ruộng
đất trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Việc áp
dụng được thi hành theo từng đợt, mỗi đợt
từ 1 tới 3 tháng với khẩu hiệu: "dựa vào bần
cố nông, đoàn kết trung nông, liên hiệp phú
nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ".
Trong phạm vi bài này, ta sẽ nghiên cứu Thời Kỳ
Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất trước năm 1954,
và bài kế tiếp sẽ nghiên cứu chi tiết thời kỳ
sau 1954....
oOo
Dựa theo kinh nghiệm đấu tranh tại Hoa Lục, cuộc
Cải cách Ruộng đất tại Bắc Việt lần lượt
trải qua các giai đoạn căn bản sau đây:
- Giai đoạn thi hành chính sách thuế nông nghiệp.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh chống phản động (đấu tranh chính trị).
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh giảm tô giảm tức.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh Cải cách Ruộng đất.
Nếu hiểu như trên thì, trong Kế hoạch Cải cách
Ruộng đất, hai giai đoạn đầu là phần chìm hay
là phần chuẩn bị, giai đoạn đấu tranh giảm tô
là phần làm thử để rút tỉa kinh nghiệm, và
giai đoạn sau chót là phần nổi hay là phần thực
hiện. Để nắm vững toàn bộ Kế hoạch Cải cách
Ruộng đất của Cộng sản Việt Nam, ta hãy quay
trở lại giai đoạn 1951, khi chính sách thuế nông
nghiệp mới được ban hành.
oOo
Thời Kỳ Trước Hiệp Định Genève 1954
Ị Chính sách Thuế Nông Nghiệp
Như đã nói trong bài trước, chính sách thuế
nông nghiệp của Chính quyền Kháng chiến nằm
trong toàn bộ chính sách thuế khoá gồm cả thuế
Công nghiệp, Thương nghiệp, Sát sinh, Lâm sản,
Thổ sản, Xuất nhập cảng v.v... ra đời từ ngày
1 tháng 7 năm 1951 do sắc lệnh số 40/SL. Nhưng,
trong tất cả mọi thứ thuế thì thuế Nông nghiệp
là nguồn lợi căn bản thay thế các loại thuế có
từ trước như thuế ruộng đất, đảm phụ Quốc
phòng, công phiếu Kháng chiến, ủng hộ chiến sĩ
mùa Đông v.v.... Thuế Nông nghiệp nhằm cung ứng
một số lượng lương thực và tài chánh lớn lao
cho Việt cộng trong nỗ lực chiến tranh ngày càng
cấp bách và nặng nề.
Hai nữa là, một phần của chính sách Cải cách
Ruộng đất, thuế Nông nghiệp là một đòn phủ
đầu để đánh quỵ những thành phần có nhiều
ruộng đất, mà chưa cần dùng tới bạo lực.
Một số địa chủ không chịu nổi thuế cao quá,
phải tự động hiến ruộng đất cho Đảng và Nhà
nước (lúc đó còn mệnh danh là "Chính quyền
Kháng chiến"). Một số khác, nếu không hiến
đất cho Đảng và Nhà nước, dĩ nhiên sẽ không
đủ sức nộp thuế theo đúng sự đòi hỏi của
Nhà nước. Như thế là chính họ đã gián tiếp
kết bản án cho mình trong giai đoạn sắp tớị
Sau hết, trong việc thi hành chính sách thuế Nông
nghiệp, Cộng sản để cho dân bình nghị lẫn nhau,
nghĩa là người nọ ấn định mức lợi tức của
người kia để cán bộ dựa vào đó bổ thuế
theo tỷ lệ thuế của chính quyền. Khi để cho dân
chúng bình nghị lẫn nhau, Cộng sản đã tự đề
cao là chúng theo chính sách dân chủ, nhưng thực
ra, dụng ý của Đảng là mượn tay người để
đánh người, gây mầm đấu tranh căn bản theo
chiến thuật của Cộng sản là "lấy mâu thuẫn
diệt mâu thuẫn".
Theo tài liệu chính thức, được phổ biến trên
tờ Cứu Quốc số 2080 ngày 6-7-1952, thì tất cả
những nông dân nào có mức lợi tức trung bình
từ 71Kg gạo một năm trở lên đều phải nộp
thuế. Thuế Nông nghiệp là thứ thuế lũy tiến,
lợi tức càng lớn thì tỷ lệ thuế càng caọ
Phân Hạng Thuế Nông Nghiệp
Phân hạng Phân hạng Lợi tức trung bình
mỗi đầu người Tỷ lệ thuế
1 từ 71Kg tới 95Kg 5%
2 96Kg - 115Kg 6%
3 116Kg - 135Kg 7%
4 136Kg - 155Kg 8%
5 156Kg - 175Kg 9%
6 176Kg - 205Kg 10%
7 206Kg - 235Kg 11%
8 236Kg - 265Kg 12%
9 266Kg - 295Kg 13%
10 296Kg - 325Kg 14%
11 326Kg - 355Kg 15%
12 356Kg - 385Kg 16%
13 386Kg - 425Kg 17%
14 426Kg - 465Kg 18%
15 466Kg - 505Kg 19%
16 506Kg - 545Kg 20%
17 546Kg - 585Kg 21%
18 586Kg - 625Kg 22%
19 626Kg - 665Kg 23%
20 666Kg - 705Kg 24%
21 706Kg - 775Kg 25%
22 776Kg - 805Kg 26%
23 806Kg - 855Kg 27%
24 856Kg - 905Kg 28%
25 906Kg - 955Kg 29%
26 956Kg - 1005Kg 30%
27 1006Kg - 1055Kg 31%
28 1056Kg - 1105Kg 32%
29 1106Kg - 1155Kg 33%
30 1156Kg - 1215Kg 34%
31 1216Kg - 1275Kg 35%
32 1276Kg - 1335Kg 36%
33 1336Kg - 1395Kg 37%
34 1396Kg - 1455Kg 38%
35 1456Kg - 1515Kg 39%
36 1516Kg - 1575Kg 40%
37 1576Kg - 1635Kg 41%
38 1636Kg - 1695Kg 42%
39 1696Kg - 1755Kg 43%
40 1756Kg - 1815Kg 44%
41 1816Kg trở lên 45%
Theo bảng phân hạng thuế này thì, trên lý thuyết,
tỷ lệ thuế tối đa là 45% mức lợi tức trung
bình, nhưng trên thực tế, qua kỹ thuật "bình
nghị", chính quyền có thể khiến một người khá
giả phải đóng thuế tới... 100% lợi tức. Ví dụ:
Mức lợi tức trung bình của nông dân A là 1800Kg,
chính quyền có thể vận động để dân "bình
nghị", gán cho nông dân A mức lợi tức là...
4000Kg và khi phải đóng theo tỷ lệ 45% thành 4000 X
45/100 = 1800Kg, thế là nông dân A bị phá sản, vì
làm được bao nhiêu phải nộp thuế hết.
Trước khi bình nghị, cán bộ Đảng lãnh đạo
việc "phân mảnh định hạng" tức là xếp hạng
từng mảnh ruộng tùy theo đất cao, thấp, tốt,
xấu theo thứ tự A, B, C v.v....
Kỹ thuật bình nghị gồm có "bình sản lượng" và
"bình diện tích". Khi đã "phân mảnh định hạng"
xong, cán bộ thuế triệu tập nông dân, gồm tá
điền và chủ điền, để "bình sản lượng", tức
là ấn định mức năng suất của một mảnh ruô.ng.
Điểm cốt yếu của kỹ thuật "bình sản lượng"
là Đảng dùng những phần tử cốt cán là các tá
điền có đảng tịch, hoặc có cảm tình với Đảng
để "bình sản lượng".
Những người này xác nhận mảnh ruộng do mình
canh tác có một sản lượng thật caọ Dĩ nhiên,
người chủ điền hay những người có mảnh ruộng
kế cận, cùng một hạng, phải chấp nhận mà
không có cách gì thanh minh; bởi vì, trên danh
nghĩa, người tá điền là người trực tiếp cày
cấy trên mảnh ruộng và biết được năng suất
của mảnh ruô.ng. Nếu người chủ đất khai báo
một năng suất thấp, mọi người dễ dàng tin
rằng chủ đất đã khai gian để trốn thuế.
"Bình diện tích" nghĩa là xác định lại diện
tích của từng thửa ruô.ng. Mặc dù trong trích
lục của mỗi thửa ruộng đều có ghi diện tích
đó, nhưng cán bộ thuế không chấp nhận, viện
cớ rằng nhân viên của Chính phủ Bảo hộ thời
xưa đã ăn tiền của chủ điền mà bớt diện
tích để bớt thuế.
Dĩ nhiên, khi "bình diện tích" thì bao giờ thửa
ruộng cũng bị gán cho một diện tích lớn hơn,
mặc dù không có đo lường chính xác. Sau khi đã
"bình sản lượng" và "bình diện tích" thì tổng
số thu hoạch của một thửa ruộng chính là sản
lượng nhân với diện tích. Ví dụ: Một thửa
ruộng có diện tích 3 mẫu và có sản lượng 2
tấn mỗi mẫu, thì tổng số thu hoạch của thửa
ruộng là 3 mẫu X 2tấn/mẫu = 6 tấn mỗi năm.
Giai đoạn áp dụng chính sách thuế Nông nghiệp
đã hoàn toàn thành công, với kết quả là chính
quyền vơ vét được một số lượng tài lực
lớn lao, đồng thời gây nên được mầm mống
mâu thuẫn "bình nghị".
oOo
Tới đây, ta cần ôn lại một số danh từ và lề
lối làm ăn sinh sống của nông dân trong giai đoạn
Cải cách Ruộng đất của Việt cô.ng. Những danh
từ như tá điền, điền tốt, bần cố nông,
bần nông, trung nông, phú nông, địa chủ là những
danh từ chỉ các loại nông dân chuyên nghiệp tùy
theo mức độ tài sản mà họ có.
Một bần nông, theo định nghĩa của Việt cộng,
là một nông dân nghèo không có đất đai để
cày cấy, hoặc chỉ có mấy sào ruộng là tối
đạ Một bần cố nông là một người suốt đời
chỉ là một nông dân nghèo (vô sản). Một trung
nông, theo định nghĩa của Việt cộng, là một
người có một vài mẫu ruộng trở lạị Một phú
nông là người có cả chục mẫu ruộng trở lên.
Một trung nông hay phú nông có thể là một địa
chủ nếu người đó không trực tiếp canh tác mà
thuê người khác làm cho mình. Một điền tốt là
một nông dân đi làm công cho một địa chủ và
được trả công như một người thơ.. Một tá
điền là một nông dân mướn đất của địa chủ
với điều kiện phải trả một mức lời nào đó
cho địa chủ, theo từng mùa canh tác. Số lời đó
được gọi là địa tô và lối làm ăn như thế
gọi là "tá canh" hay "làm rẽ". Số lời (địa tô)
chia cho chủ đất có thể dưới hình thức tiền
bạc hoặc hoa màu; ví dụ như trong giai thoại ông
Trạng Quỳnh cấy rẽ đất của Bà Chúa (có lẽ
thời Vua Lê, Chúa Trịnh). Những nông dân trực
tiếp canh tác đất của mình thì gọi là "trực
canh".
Trong thời kỳ chiến tranh Viê.t-Pháp, một số
đông nông dân bỏ vùng mất an ninh để về Tề,
và Việt Minh đã khuyến khích những người khác
chiếm hữu đất đai bỏ lại để canh tác. Tình
trạng này được gọi là "chiếm canh", một vấn
đề tế nhị về chính trị, đã được chính
quyền Quốc gia dưới chế độ Bảo Đại giải
quyết bằng cách chấp nhận cho những người
chiếm canh được hưởng toàn bộ hoa lợi do họ
làm ra, tuy nhiên quyền sở hữu đối với ruộng
đất vẫn thuộc chủ đất nếu họ trở về canh
tác (Thông điệp đầu Xuân Ân lịch 1951 của Quốc
Trưởng Bảo Đại).
Vấn đề định nghĩa các thành phần bần nông,
trung nông, phú nông và địa chủ là vấn đề rất
quan trọng đối với Việt cộng trong việc ngầm
xác định ai là đối tượng cần liên hiệp và ai
là đối tượng cần tiêu diệt trong giai đoạn
đấu tranh chính trị sắp tớị Gọi là ngầm xác
định vì, trong giai đoạn "Thuế Nông Nghiệp",
Việt cộng chưa công khai hoá chủ trương tiêu
diệt địa chủ mà chỉ nhắm vào một số nạn nhân
có tính cách điển hình, và "tội danh" của họ
dựa trên "căn bản pháp lý" của Thuế Nông
Nghiệp, chứ không phải trên căn bản thành phần
giai cấp.
Sunday March 29, 2009 - 09:11pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
CCRĐ TẠI MIỀN BẮC PHẦN 3 & 4
II. Giai Đoạn Đấu Tranh Chính Trị
Như đã nói trong giai đoạn thi hành Thuế Nông
Nghiệp, Việt cộng đã dùng đảng viên xúi giục
một số nông dân, nhất là bần nông làm tá
điền, gán cho những thửa ruộng mà họ cày cấy
có một năng suất rất cao, khiến cho người chủ
đất phải trả một số thuế nhiều khi tới 100%
hoặc trên 100% số thu hoa.ch.
Người chủ đất nạn nhân chỉ có hai sự lựa
chọn, hoặc chịu đầu hàng bằng cách hiến đất
cho Đảng và Nhà nước (lúc đó còn mệnh danh là
"Chính quyền Kháng chiến"), hoặc ỳ ra đấy vì
không đủ sức nộp thuế theo đúng sự đòi hỏi
của Chính sách Thuế Nông nghiệp. Bằng cách thứ
hai, họ đã tự kết bản án cho mình trong Giai
đoạn Đấu tranh Chính trị mà Việt cộng gọi là
"phát động quần chúng đấu tranh chống phản
động".
Trong giai đoạn "phát động quần chúng đấu tranh
chống phản động", Đảng Cộng sản nhắm vào ba
mục đích chính yếụ
Mục đích thứ nhất là Đảng dùng bạo lực của
quần chúng để đánh quỵ bớt một số phần tử
lừng khừng chống đối nguy hiểm, trong đó có
một số địa chủ, nhưng Đảng chưa để lộ kế
hoạch đấu tranh giai cấp hạ địa chủ. Tất cả
những phần tử bất mãn với chính sách của
Đảng, nhất là chính sách Nông nghiệp đều bị
quy cho tội "phản động", "thông với giặc".
Mục đích thứ hai là Đảng chuẩn bị kỹ thuật
đấu tranh bạo lực, luyện tập cho cán bộ quen
với các kỹ thuật xâm nhập. khai thác mâu thuẫn,
đấu tranh bạo động dành cho cuộc Cải cách
Ruộng đất.
Mục đích thứ ba là Đảng muốn vơ vét dân công
và tân binh, đồng thời làm áp lực thu thuế
Nông nghiệp. Đảng đã đạt được mục đích này
vì nhiều người bở vía trước cuộc đấu tranh
bạo lực đã xung phong đi dân công hoặc đi tân
binh, giúp Đảng giải quyết được nhu cầu cấp
bách của chiến tranh.
Cuộc "phát động quần chúng đấu tranh chống
phản động" đã lấy đề tài Thuế Nông nghiệp
và Đảng muốn nhóm họp Đại hội Nông dân để
nêu câu hỏi: "Tại sao có người chưa thanh toán
thuế?".
Anh Nguyễn Văn Thân, một hồi chánh viên, đã kể
lại một cách tóm lược nội dung một buổi Đại
hội Nông dân như sau:
"Chủ tọa của buổi họp là những phần tử nông
dân cốt cán, nghĩa là đảng viên hoặc cảm tình
viên, và họ đã nắm trong tay một danh sách những
phần tử cần phải triệt ha.. Khi nêu câu hỏi về
việc thiếu thuế Nông nghiệp, chủ tọa đoàn kêu
tên một người thiếu thuế và ra lệnh du kích
trói nạn nhân lại, treo lên, rồi dùng cực hình
tra tấn, đánh đập, mớm cung để nạn nhân khai
tội "chủ mưu xúi giục" cho những người có tên
trong danh sách có sẵn, tức là sổ đen của Đảng.
Nhờ kỹ thuật này, Đảng đã bắt đầu bằng
một người thiếu thuế Nông nghiệp mà kết tội
những phần tử đối lập chính trị nằm trong
sổ đen, không nhất thiết phải là những người
thiếu thuế. Và, tất cả những tội nhân, sau khi
bị đánh đập tra tấn theo kỹ thuật mớm cung,
lần lượt từ người này chuyền lan tội lỗi
sang người khác, họ bị giam giữ để chờ ngày ra
Tòa án Quân sự Tỉnh".
Tóm lại, một nông dân thiếu thuế Nông nghiệp
được dùng làm đầu nối để triệt hạ những
kẻ đối lập bị Việt cộng mệnh danh là "việt
gian", "phản động" hay "theo Tây". Đó là điểm
mấu chốt của phong trào "phát động quần chúng
đấu tranh chống phản động".
Cuộc "đấu tranh chống phản động" được phát
động vào khoảng cuối năm 1952, đầu năm 1953,
đã làm nông thôn kinh hoàng nghẹt thở. Và kế
tiếp theo đó, Đảng cho phát động "đấu tranh
giảm tô" vào khoảng tháng 4 năm 1953.
IIỊ Đấu Tranh Giảm Tô
Cuộc "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
giảm tô giảm tức" là cuộc thí nghiệm thực sự
của kỹ thuật Cải cách Ruộng đất theo phương
pháp Cộng sản.
Để phát động đấu tranh, Đảng tổ chức những
"Đội đấu tố", gồm những cán bộ đã được
Trung Cộng huấn luyện, và gửi họ xâm nhập vào
làng. Những "Đội đấu tố", này về sau trở
thành các "Đội Cải cách Ruộng đất", đã giả
dạng làm nông dân và được các Uỷ ban Hành chánh
làng, xã giới thiệu tới cư ngụ tại những gia
đình nghèo nhất trong xã.
Các Đội này áp dụng một kỹ thuật tâm lý
chiến rất tinh vi để mua chuộc cảm tình những
gia đình nông dân nghèo nơi họ cư ngụ, đó là kỹ
thuật tam cùng: cùng ăn (góp phần ăn chung), cùng
ở (cùng ở chung một nhà) và cùng làm (mà không
lấy công). Đây là giai đoạn chuẩn bị đấu
tranh, một giai đoạn quan trọng nhất, gồm ba mục
tiêu:
- Mua chuộc tình cảm nông dân nghèọ
- Gây căm thù giữa các nông dân nghèo đối với
địa chủ và xúi giục họ đấu tranh.
- Điều tra tỉ mỉ các gia đình khác trong làng,
xã.
Kỹ thuật "tam cùng" này rất thành công. Sau khi
đã chịu sống cực khổ với bần nông, giúp đỡ
tận tình trong mọi công việc, mua chuộc được
cảm tình của bần nông, "cán bộ tam cùng" bắt
đầu rỉ rả nhồi sọ, tuyên truyền cho bần nông
căm thù địa chủ là chính địa chủ đã gây nên
cảnh cùng khổ cho ho.. Sau khi gây được căm thù,
cán bộ tam cùng phải thuyết phục bần nông đứng
lên đấu tranh tiêu diệt địa chủ.
Khi đã thuyết phục được một bần nông chịu
đứng lên đấu tranh với địa chủ, cán bộ gọi
là đã "xây dựng được một rễ". Một "rễ"
phải ưu tiên là một thân nhân gần nhất của
địa chủ có tội, chẳng hạn như là vợ bé, con
gái, con nuôi, hoặc gia nhân,... vì trong trường
hợp như vậy, những lời tố cáo (vu oan giá họa)
của "rễ" đối với địa chủ sẽ gây được xúc
động tâm lý mạnh mẽ hơn.. Nếu không tìm được
người có liên hệ gần với địa chủ thì phải
tìm người có liên hệ xa, và nếu cùng quá không
tìm được người có liên hệ xa gần thì mới
phải tìm người ngoài để "xây dựng rễ".
Khi đã xây dựng được một rễ, lại có thể
móc nối thêm các rễ khác làm thành một "chuỗi
rễ". Trong trường hợp cán bộ không thuyết phục
được một "rễ" thuận ý đấu tranh với địa
chủ, cán bộ nói là "gặp phải rễ thối". Sau bao
nhiêu công lao "tam cùng", họ lại phải đi tìm một
"rễ" khác.
Anh Nguyễn Văn Thân, và một số nhân chứng hồi
chánh viên khác, đã kể lại những mẩu giai thoại
bi hài về "Đấu tranh Giảm tô" như:
".... Cảnh sống tam cùng đã đưa đến nhiều
bi-hài kịch: Có khi đội viên là một chàng trai
mà gia đình bần cố lại có con gái lớn nên
chuyện hủ hóa đã xảy ra; hoặc giả khi người
nghèo khổ nhất làng lại là một bà cụ già bị
bệnh thần kinh, ăn nói bất nhất, hoặc một
người có lương tâm tốt nên dù đội viên Cải
cách Ruộng đất có cố gắng đến mấy, họ cũng
không thể hoặc không chịu đứng ra tố người
địa chủ, nhất là khi họ đã từng chịu ơn của
người địa chủ đó. Vì vậy mới có danh từ
"rễ thối" để chỉ các loại này...".
Sau khi đã chuẩn bị xong các nhân vật chính trong
cuộc đấu giảm tô, các Đội Cải cách Ruộng
đất mới ra mắt công khai tại làng, xã, và lập
tức, các cơ cấu tổ chức cũ như Uỷ ban Hành
chánh Xã v.v... đều bị giải tán để giao quyền
hành lại cho Đội và những phần tử cốt cán
đảm nhiệm. Làng xã lúc đó lập tức bị phong
tỏa, chỉ riêng Đội Cải cách có thể liên lạc
bằng đường dây điện thoại với trung ương
hoặc cấp trên của họ là Đoàn Cải cách Ruộng
đất. Các địa chủ liền bị cô lập, giam lỏng
hoặc bị quản chế thực sự, tài sản của họ bị
niêm phong.
Tất cả gia đình của địa chủ cũng bị cô lập,
bị khủng bố tinh thần, bị nhục mạ, trẻ con
được xúi giục ném đá, đánh đập gia đình
địa chủ mà họ không có quyền phản ứng lại,
người lớn được quyền chửi bới gia đình
địa chủ mỗi khi gặp mặt. Chẳng những gia đình
địa chủ lâm vào cảnh cùng đường, mà thân nhân,
bạn bè cũng bị đẩy vào tuyệt lô.. Những
người này, nếu còn giữ cảm tình với gia đình
địa chủ, tìm cách ngấm ngầm giúp đỡ hoặc
bênh vực địa chủ mà bị Đội Cải cách phát giác
là sẽ bị ghép vào tội "Liên quan phản động".
Phần chính của tấn kịch Đấu Giảm tô là phần
"Thoái Tô", "Đấu Địa Chủ" và "Xử án Địa chủ".
oOo
Ta biết rằng việc giảm tô đã được "Chính
quyền Kháng chiến" quy định bằng một sắc lệnh
số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 ấn định một
mức chung là giảm đi 25%. Điều này có nghĩa là
ưu đãi các tá điền và theo luật mới, địa chủ
phải giảm bớt số lời ("địa tô") đánh trên tá
điền.
Vì lề lối làm việc luộm thuộm ở nông thôn,
khi địa chủ giảm tô cho tá điền chẳng hề có
việc ghi biên lai làm bằng chứng. Vì thế, 4 năm
sau, khi có phong trào Đấu Giảm tô, địa chủ bị
coi như không hề giảm tô cho tá điền theo như
sắc lệnh, và Đội Cải cách hướng dẫn tá
điền "khai nợ" để đòi địa chủ phải "Thoái
tô" cho tá điền, nghĩa là hoàn trả cho tá điền
số địa tô thặng dư mà địa chủ đã lấy một
cách trái phép (theo sự "mớm cung" của cán bộ
Cải cách và sự khai gian của tá điền). Số nợ
"thoái tô" này nhiều hay ít là do Đội ấn định
trước, tùy theo số tài sản, nữ trang của địa
chủ mà "Đội" đã điều tra biết được.
oOo
Sau khi "xây dựng" xong "chuỗi rễ" và trước khi
địa chủ bị đem ra tố khổ, đội viên Cải cách
phải nhồi sọ "chuỗi rễ" qua một khóa học về
"Tội ác của địa chủ", dạy họ cách nói, cách kể
tội... với những bằng chứng ngụy tạo, như lời
anh Nguyễn Văn Thân thuật lại dưới đây:
".... Chủ yếu là dạy họ tả chân với những
chứng tích cụ thể (nhưng gian trá) để làm xúc
động quần chúng. Thí dụ như một cái sẹo cũ bị
ngã từ hồi còn bé sẽ được trình bày là vết
dao chém của địa chủ ác ôn, hoặc cặp mắt bị
kèm nhèm, mù lòa vì bệnh đau mắt hột hay lông
quặm (trichiasis) sẽ dùng để tố là địa chủ ác
ôn bắt thức khuya, dậy sớm chăn heo, nuôi gà,
không cho ngủ.... Hoặc nếu một bà lão rụng tóc
hết vì già hay vì bệnh hoạn thì sẽ dùng chứng
tích này để tố địa chủ nắm tóc giựt, đánh
đập.... Nếu là phụ nữ thì sẽ tố rằng bị
địa chủ hiếp dâm hàng trăm lần v.v...".
Sau khi lập xong "bản tội ác" của từng địa chủ,
các đội viên Cải cách bắt đầu tập dượt các
"chuỗi rễ" cho thuần thục về "Cách tố khổ
địa chủ trước quần chúng", y như như công việc
của Đạo diễn và Diễn viên trước khi trình
diễn. Họ phải học tập từ cách ăn nói, tới
điệu bô.... trước một hình nộm địa chủ.
Tiếp đó, Đội Cải cách mới công bố "Ngày
đấu tố".
".... Trong thời gian này, dân làng rất sợ sệt
và ngoan ngoãn, nhất là các thành phần trung nông
và phú nông, bảo họp là họ đi họp, bảo khóc là
họ khóc, bởi ai cũng sợ bị "nâng" lên thành
phần địa chủ. Đại hội họp mấy đêm liền,
mỗi đêm sẽ có một "rễ" chính lên tố khổ kể
tội địa chủ với sự phụ họa của một vài "rễ"
phu.. Đại hội này được gọi là "ôn nghèo kể
khổ". Trước khi lập báo cáo, Đại hội được
xem trình chiếu phim "Bạch Mao Nữ" (một nhân vật
với cốt truyện của Trung Quốc). Truyện phim nói
về một cô gái đi ở cho địa chủ, sau bị tên
này hiếp dâm, áp bức, hành hạ, nên cô ta phải
trốn lên núi theo "Cách Mạng" cho đến khi Đội
Cải cách Ruộng đất về làng, cô mới trở lại
thì tóc cô đã bạc trắng.
"Ảnh hưởng của cuốn phim đã tác động sâu
đậm trong tâm lý quần chúng nông thôn chất
phác. Họ đã xúc động, khóc thật sự trước
cảnh dã man, tàn ác của tên địa chủ trong phim ảnh
vừa chiếu thì, ngay sau đó, Đội Cải cách liền
đưa các "rễ" ra trình diện nông dân và kể
khổ. Thế là khí thế sắt máu của giai cấp bần
cố nông nổi dậy theo tiếng khóc, tiếng kể lể
của các "rễ", đã được Đội cho học tập từ
trước. Khí thế ghê rợn đó đi từ việc hô
các khẩu hiệu "đả đảo địa chủ cường hào"
đến việc ký tên vào quyết nghị xin xử tử
hoặc kết án tù tên địa chủ cường hào đó.
Thư ký Đội Cải cách sẽ lập biên bản phiên Đại
hội, lập báo cáo điển hình và trình lên Đoàn
Uỷ duyệt lại để xin quyết định của Trung ương.
Mấy hôm sau, Đoàn gửi công văn xuống chỉ thị
rằng Trung ương đồng ý với bản án của... toàn
dân đưa rạ
"Sau đó là việc tổ chức "Pháp trường đấu".
Các đội viên Đội Cải cách Ruộng đất sẽ
không tham dự nữa mà phải xây dựng (huấn
luyện, nhồi sọ) cho các gia đình bần cố "chuỗi
rễ" làm việc đấu tố, và lập Tòa án nhân
dân, gồm có: Chủ tịch đoàn và các Uỷ viên Hội
đồng Tòa án là các thành phần "chuỗi rễ" đã
được các đội viên "xây dựng", không có Luật
sư bào chữa cho bị can, có Đoàn Uỷ và chính
quyền địa phương tham dư.. Bị can là các địa
chủ cường hào đã bị giam từ trước và đến
khi đó, bị giải ra "đấu trường" tại sân đình
hay sân trường làng, toàn thể dân làng đều
phải có mặt và tập trung theo thành phần để
tham dư.. Trong phiên đấu này, các "chuỗi rễ"
đã được huấn luyện cũng lại đứng ra kể
tội, tố một cách tóm tắt hơn, và sau đó, vì
không có Luật sư nên "Tòa" cho phép "bị can" tự
bào chữa; tuy có hình thức "dân chủ" như thế,
nhưng thực ra, bị can chỉ còn cách cúi đầu nhận
tội, nếu người nào ngoan cố không nhận, hoặc
nói sai ý của Chủ tịch đoàn thì lập tức Chủ
tịch đoàn hô khẩu hiệu đả đảo và nông dân
tham dự ở dưới hô theo để áp đảo tinh thần
bị can và cấm không cho bị can nói tiếp. Sau đó,
Chủ tịch đoàn chỉ việc tuyên án bị can theo một
bản án đã do Trung ương định sẵn".
Đoạn dưới đây thuật lại một cuộc đấu tố
với những tội nhân điển hình tại Xóm Chuối,
tỉnh Ninh Bình, khi Đội Cải cách về làng và anh
Nguyễn Văn Thân được cử làm Thư ký Đội:
".... Đoàn tôi về thi hành chính sách tại Ninh
Bình. Đoàn trưởng là anh Thu, đã từng là Chính
uỷ Trung đoàn và lúc đó đang làm Tỉnh uỷ viên.
Tôi thuộc Đội 6. Đội trưởng là chị Văn, lúc
đó mới 20 tuổi, mồ côi, đi ở đợ cho địa
chủ từ nhỏ và đã tham gia Cải cách Ruộng đất
các đợt 1, 2, 3 và 4 với tư cách "rễ". Đợt
này là đợt thứ 5 chị được đề cử làm Đội
trưởng. Về văn hoá, chị chỉ biết ký tên mà
thôi, nhờ chúng tôi dạy cho chi.. Đội chúng tôi
được cử về Xóm Chuối, tỉnh Ninh Bình. Xóm này
rất nghèo, số gia đình có khoảng trên 100, và
thực tế thì chúng tôi chỉ thấy có 3 gia đình
tạm gọi là khá giả, nghĩa là có từ 10 đến 15
mẫu ruộng, có ao, có vườn. Thứ nhất là gia
đình ông Quản Năm, có con là Thiếu tá Trung đoàn
phó 3/14, có 15 mẫu ruộng, con cháu đông nên chỉ
mướn 3 anh tá điền làm công. Chúng tôi về "xây
dựng" 3 anh này để đứng ra tố ông Quản Năm,
nhưng 3 anh không chịu, nên sau phải vận động cô
cháu họ của ông cụ tên là Min đứng ra đấụ Gia
đình thứ hai có 10 mẫu ruộng, nhưng lại giao cho
người cháu quản lý, còn chính gia chủ lại đi
buôn bán ở thị xã Hà Nam, có con đi bộ đội
chết (tử sĩ); sau, người cháu sợ bị ghép tội
"Liên quan phản động" nên đứng ra đấu tố gia
đình ông nàỵ Gia đình thứ ba là gia đình bà
Quản Hảo, một thành phần địa chủ mới giàu do
công khó làm ăn vì ruộng đất toàn do con cái
tự canh tác, không mượn ngườị Đội tôi đưa
cháu gái đứng ra tố bà cộ
"Sau khi tìm được ba địa chủ, xây dựng được
"chuỗi rễ", Đội tôi làm báo cáo điển hình
về Đoàn xin duyệt y, nhưng Đoàn không chấp
nhận vì chưa đạt tiêu chuẩn tỷ lệ là 5% và
Đội tôi phải "cố" làm sao để nâng số gia
đình địa chủ lên 5 ngườị Làm đi làm lại,
Đội tôi đành chịu thua nên Đoàn phải cử một
anh cố vấn tên Thanh về để giúp giải quyết.
Anh Thanh này có thành tích chuyên môn phát hiện
địa chủ; nên sau khi có sự giúp đỡ của anh ta,
chúng tôi có thêm hai gia đình địa chủ nữa để
đấu tố. Hai gia đình này chỉ có một hai mẫu
ruộng, nhưng có xe đạp, có con đi học ở Hà
Nội, và nhất là một trong hai gia đình địa chủ
có lần đi lính cho Pháp trước rồi sau về làm
Phó lý tên gọi là Phó Hội Khạ
"Khi đã xây dựng đủ số 5 gia đình cường hào
địa chủ, chúng tôi lập báo cáo và khi đó Đoàn
mới duyệt phương án và đòi phải có ít ra là 2
cường hào ác bá phải bị xử tử. Chúng tôi
định đưa bà Phó Hội Kha ra làm vật hy sinh vì
ông chồng bà trước kia đi lính cho Pháp và làm
Phó lý, tuy nay đã chết, nhưng nợ máu vẫn còn
và bà vợ phải trả. Nhưng, bà Phó Hội Kha nghe
được tin này đã thắt cổ tự tử trước khi
bị chúng tôi đưa ra đấu trường. Tuy vậy, khi
lập Tòa án Nhân dân, bà Phó Hội Kha vẫn bị xử
khuyết tịch và bị tịch biên gia sản để trả lại
cho nông dân.
"Riêng tôi được phân công "bắt rễ" với một
bà 55 tuổi, không con, có họ với ông Quản Năm.
Bà này bị bệnh thần kinh nhe.. Tôi đã phải áp
dụng kỹ thuật "tam cùng" thật là khổ sở: ăn
đói, ngủ thiếu, làm khổ, nên trong thời gian
này, tôi bị sút năm, sáu Kí-lô, và điều nản
nữa là bà này lại là một "rễ thối", nghĩa là
bà ta chẳng nói, chẳng hiểu và chẳng làm gì
cả. Sau, tôi phải bỏ lờ bà ta để tìm một "rễ"
khác để xây dựng, đó là anh Thà, một thanh
niên tá điền, cờ bạc, rượu chè nên rất căm
thù ông Quản Năm. Rồi cô cháu họ của ông Năm,
tức chị Min, tố bị ông hiếp tất cả 17 lần....
Mặc dù các gia đình này có con là bộ đội cũng
vẫn bị tố như thường, mà khi con về còn bị
Đội Cải cách bắt vì nghi là về liên lạc với
địa chủ...".
oOo
Tóm lại, "Đấu giảm tô" chính là một giai đoạn
thực tập thí nghiệm cho chiến dịch "Đấu tranh
Cải cách Ruộng đất". Phong trào Đấu giảm tô
đã thực sự sử dụng đến bạo lực của nông
dân, đã thực sự gây chém giết, đổ máu và tỏ
ra thành công hơn giai đoạn "Đấu tranh chống phản
động" nhờ đã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm
hơn. Trong giai đoạn đấu tranh chống phản động,
qua kỹ thuật "mớm cung" theo dây chuyền, nhiều
nạn nhân đã khai lung tung ra ngoài sự dự liệu
của cán bộ Đảng khiến cho Đảng không nắm vững
được phong tràọ Trong giai đoạn đấu tranh giảm
tô, những người đứng ra tố cáo đã được
cán bộ huấn luyện, giáo dục, nhồi sọ và chuẩn
bị rất kỹ lưỡng tới mức hoàn hảọ
Một điểm rất quan trọng đáng lưu ý ở đây là
quy tắc kích tỷ lê.. Đảng đã nhắm đến trong
giai đoạn đấu tranh giảm tô là không phải chỉ
riêng địa chủ mới bị xử tử mà cà những
người có một, hai mẫu ruộng cũng phải lãnh
những phát đạn kết liễu cuộc đời, vì bị
kết vào những tội phản động, phản quốc, thông
đồng với giặc Pháp v.v.... Làm như vậy, Đảng
đã gián tiếp cảnh cáo những phần tử phú nông
và trung nông khác phải coi chừng, đừng có nho
nhoe chống đốị
oOo
Cuộc Đấu tranh Giảm Tô đã kéo dài tới đầu
năm 1954 thì tạm thời được ngưng lại khi Chiến
trường Điện Biên Phủ đi vào giai đoạn nghiêm
trọng và quyết đi.nh.
Nói tóm lại, cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền
Bắc bắt đầu vào năm 1951 với chính sách Thuế
Nông Nghiệp, trùng hợp với giai đoạn Tổng Phản
Công trên phương diện quân sự với các trận
đánh lớn như Trận Vĩnh Yên (khai diễn ngày 13
tháng 1, 1951), Trận Mao Khê (khai diễn đêm 23 rạng
ngày 24 tháng 3) và Trận Sông Đáy (khai diễn ngày
29 tháng 5). Sự trùng hợp này giải thích nhu cầu
cấp bách trên ba phương diện:
- Động viên nhân lực và tài lực cho chiến
tranh.
- Đánh gục các thành phần Quốc gia yêu nước
nhưng không ủng hộ Việt cộng dưới danh hiệu
Việt Minh.
- Chuẩn bị đánh gục các thành phần Quốc gia yêu
nước đang tham gia cuộc Kháng Chiến Chống Pháp,
nhưng có thể trở thành chống lại Việt cộng khi
Kháng Chiến thành công.
Sự chuẩn bị này dành cho giai đoạn sắt máu sắp
tới, mà ta sẽ nghiên cứu trong bài báo kế tiếp;
trong đó, các câu hỏi sau đây sẽ được giải
đáp:
- Việt cộng làm cách nào tiêu diệt các thành
phần Quốc gia yêu nước tham gia Kháng Chiến?
- Nhân dân có thái độ như thế nào để chống
lại các hành động gian ác của Việt cộng?
- Việt cộng dùng thủ đoạn gì để đối phó
với phản ứng của nhân dân?
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (3)
* Giai đoạn đấu tranh sắt máu sau 1954
Trận Điện Biên Phủ và Hiệp Định Geneve 1954 là
hai biến cố chính khiến cho chiến dịch Đấu
Tranh Giảm Tô được tạm ngưng. Mặc dầu sau Hiệp
Định Genève, Việt cộng hoàn toàn làm chủ miền
Bắc trong một khí thế đầy phấn khởi, bộ
đội Việt cộng về thủ đô với một vinh dự
chiến thắng, nhưng Hồ Chí Minh và giới đầu
lãnh Hà Nội phải đối phó với nhiều vấn đề
cấp bách: Phong trào di cư của gần một triệu
đồng bào miền Bắc bỏ trốn cộng sản vào Nam,
việc tập kết khoảng 50 ngàn bộ đội và cán
bộ cộng sản từ Nam ra Bắc tạo nên nhu cầu ổn
định tâm lý quần chúng cũng như củng cố an ninh.
Do đó, Việt cộng đã dành một thời gian khoảng
một năm để chấn chỉnh tình hình nội bộ và
chuẩn bị làm nốt phần tối quan trọng của Cải
Cách Ruộng Đất để bắt đầu công việc xây
dựng cơ sở vật chất cho công cuộc xâm lược
miền Nam.
Trong phạm vi bài này ta sẽ đi vào các phần chính
sau đây:
- Giai đọan đấu tranh đẫm máu
- Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định
sửa sai
- Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền
Bắc
- Những đặc điểm điển hình của giai đoạn Cải
Cách Ruộng Đất 1951-1956 đưa đến chiến dịch
sửa sai.
I. Giai Đoạn Đấu Tranh Đẫm Máu
Giai đoạn này bắt đầu vào khoảng giữa năm 1955
trên toàn thể miền Bắc với những trường hợp
sau đây:
- Khu rừng núi không có cải cách ruộng đất (xem
bản đồ đính kèm)
- Vùng đồng bằng sông Nhị Hà trước kia chưa có
đấu giảm tô, thì trong giai đoạn này cả hai cuộc
"đấu tranh giảm tô" và "đấu tranh Cải Cách
Ruộng Đất" được xúc tiến cùng một lượt
(xem bản đồ).
Như đã trình bày trước đây, thể thức đấu
tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu
tranh giảm tô, chỉ khác ở mức độ tàn bạo gia
tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng do sự "càn
đi quét lại" và "kích tỷ lệ".
Điểm căn bản là sau cuộc cải tạo nông nghiệp
ruộng đất cũng như gia tài sản nghiệp của địa
chủ bị tịch thu và được chia cho nông dân nghèọ
Đây chính là cái mồi ngon cuối cùng mà đảng
dành cho nông dân suốt trong những giai đoạn đấu
tranh đã quạ
Cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất được Trung
Ương Đảng giao cho Trường Chinh lãnh đạo qua một
Trung Ương ủy viên phụ trách là Hồ Viết Thắng;
dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng
đất cho mỗi tỉnh và dưới đoàn có các đội
cải cách ruộng đất cho mỗi xã. Các đội và
đoàn đều trực tiếp nhận lệnh của trung ương
mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương.
Nguyên tắc chọn lựa các đội viên của đội cải
cách ruộng đất phải là những thành phần cốt
cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã
chiến đấu trong bộ độị Đấy là các đội
viên của đợt đầu tiên cải cách ruộng đất.
Sau mỗi đợt, lại có một số thành phần cốt
cán bần cố nông khác được bồi dưỡng để
trở thành đội viên các đợt saụ Do đó càng
về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng
khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là
những người trẻ tuổi, cuồng tín được bồi
dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp để căm
thù thật sự; và cũng do đó mà vào năm 1956,
đợt Cải Cách Ruộng Đất được phát động
lấy tên là đợt Tổng tấn công Điện Biên Phủ
đưa số người bị tàn sát lên đến 10 ngàn
người, riêng trong đợt này; đội cải cách
ruộng đất trở thành một công cụ khủng bố ghê
gớm khiến nhân dân đồng thanh coi là "nhất
đội nhì trời" mỗi khi đội về làng. Sở dĩ
có sự tàn sát ghê gớm như vậy, vì chiến
thuật kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của Việt cô.ng.
Thí dụ: cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ
hay không đủ, có hay không có, đội cải cách
ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất
là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%) nếu hơn càng
tốt, và trong số 5 gia đình này phải quy cho
được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử
tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn tỷ lệ
sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai
cấp, công tác kém, v.v....
Cuộc "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
cải cách ruộng đất" còn là cơ hội để đảng
thực hiện một cuộc thanh trừng quy mô nội bộ
Đảng cũng như hàng ngũ kháng chiến, sau khi thực
dân Pháp đã bị đánh bạị Và theo chính sự thú
nhận của Việt cộng khi có chính sách sửa sai,
trong cuộc thanh trừng này có tới 23 ngàn đảng
viên trung kiên bị "chết oan" , ngoài ra còn bao
nhiêu ngàn đảng viên "không trung kiên" bị chết
"một cách đích đáng" thì không thấy có tài
liệu chính thức nào của đảng ghi chép cả.
Khi cuộc cải cách ruộng đất lên tới mức độ
tàn bạo nhất, tức là đợt cải cách Điện Biên
Phủ, rất nhiều người thuộc thành phần trung
nông, tiểu thương bị "kích" lên thành địa chủ
phản động và bị đem đấu tố. Thê thảm hơn
nữa là những cán bộ cao cấp có công với kháng
chiến mà cũng bị kết tội là cường hào ác bá
và có chân trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Nhân
chứng Nguyễn Văn Thân mô tả một cuộc đấu tố
chụp mũ như sau:
...."Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi
được dự là lần đấu ông Nguyễn Văn Đô, bí
thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy ngoại thành Hà
Nội..." ...."Nạn nhân Nguyễn Văn Đô là bí thư
huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng
lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân
trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Chủ tịch đoàn nói
rằng ông lợi dụng chức vụ của Đảng hoạt động
cho Quốc Dân Đảng. Người đứng kể tội là
một nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông
Độ Một cụ già khác lên tố về việc cướp
đất ruộng nương và cô con gái của ông lên
đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả là
117 lần, v.v.... Đến khi ông Đô được phép lên
phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi
trả lời: Ông không phải là Quốc Dân Đảng, ông
chỉ làm việc cho Bác cho kháng chiến mà thôị Ông
trả lời cô con gái là: "Thưa bà, bà còn quên
đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà
nữa". Câu trả lời này làm mọi người phải bật
cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm,
chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu "đả đảo
tên Đô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng
nói của ông nàỵ Sau đó họ không cho ông nói
tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay
tại chỗ. Cuộc đấu này kéo dài từ 5 giờ sáng
tới 13 giờ, tức 1 giờ trưa mới xong". (Nguyễn
Văn Thân)
Rất nhiều cựu cán bộ cộng sản có tham dự
cuộc cải cách ruộng đất đều thắc mắc không
hiểu ẩn ý của Đảng khi thẳng tay triệt hạ
chính những cán bộ Đảng cao cấp và trung kiên,
và triệt hạ luôn cả cơ cấu tổ chức Đảng ở
nông thôn, thay vào đấy bằng những thanh thiếu
niên bần cố nông từ 15 tới 18 tuổị Rất
nhiều người thắc mắc không hiểu Đảng vô tình
hay cố ý giết oan người của Đảng.
Nhưng nếu người ta có cơ hội nghiên cứu kỹ
cuộc cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, thì
ẩn ý của Đảng trở thành rõ rệt. Đó là chủ
trương đấu tranh liên tục trong nội bộ cộng
sản bằng những cuộc thanh trừng đẫm máụ Đảng
phải luôn luôn đào thải những cán bộ đảng viên
cũ không thuộc thành phần vô sản, những người
đã lỗi thời, có thể trở thành nguy hiểm cho
đảng vì đã trau dồi những kinh nghiệm đấu
tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm
vững tình hình Đảng, quy tụ được thế lực
mạnh, và có thể phản Đảng. Thay vì dùng nghị
đình, thông tư, sự vụ lệnh để thải hồi
những phần tử này, Đảng đã mượn tay quần
chúng nông dân để tiêu diệt cho hết hậu họạ
Kết quả là chính nạn nhân của cải cách ruộng
đất cũng không biết được thâm ý của "Hồ chủ
tịch" và của "Đảng", mà tưởng rằng cấp dưới
làm sai, nên có người khi chết còn tung hô "Hồ
chủ tịch".
IỊ Phản Ứng Của Nhân Dân Đưa Đến Quyết Định
Sửa Sai
Mức độ sắt máu của Cải Cách Ruộng Đất đã
được chính những tên thợ thơ nô dịch của
Việt cộng cổ võ để nịnh Đảng và nạt dân.
Tố Hữu, một cán bộ lạnh đạo văn hóa của
Việt cộng miền Bắc viết bằng một giọng khát
máu:
"Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin... bất diệt."
Còn Xuân Diệu cũng cuồng say với cuộc đấu tố
bằng những vần thơ như sau:
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đưốc cho sáng đình làng đêm naỵ
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôị
(trích Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 22 và
23)
Nhưng những vụ tàn sát của Cuộc Cải Cách Ruộng
Đất đã gây xúc động công phẫn mãnh liệt ở
khắp mọi nơị Mặc dầu dân chúng chưa võ trang
nổi dậy quy mô, nhưng những vụ phục kích giết
cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa
bần cố nông và thân nhân của người bị đấu
tố đã xảy ra thường xuyên. Những người bị
đẩy đến bước đường cùng đã liều mạng
một sống một còn với kẻ thù của mình, bất
chấp những đe dọa của Đoàn Cải Cách Ruộng
Đất.
Đúng vào lúc đó, Đại Hội Đảng Liên Xô lần
thứ 20 đã đem lại một biến cố làm chấn
động dư luận thế giới và có ảnh hưởng đến
tình hình Việt cộng miền Bắc. Ngày 20 tháng 2
năm 1956, Krushchev đọc bài diễn văn trong Đại
Hội Cộng Đảng, công khai lên án bản chất khát
máu của Satalin qua những vụ thủ tiêu hàng vạn
đảng viên đối lập đồng thời tiết lộ nhiều
tội lỗi khác của Stalin, kể cả tội bắt dân Nga
sùng bái cá nhân của Stalin như một vị thánh
sống.
Cũng trong Hội Nghị lần thứ 20, Cộng Đảng Liên
Xô đã sửa đổi "chủ thuyết Stalin" bác bỏ chủ
trương quá khích của Stalin đòi hỏi "Cách mạng
phải bạo động và càng tiến tới xã hội chủ
nghĩa thì đấu tranh giai cấp càng quyết liệt".
Việc hạ bệ Stalin và việc thay đổi đường
lối chính sách tại Liên Xô chỉ là một sách
lược lừa địch và dụ khị đi.ch. Trên phương
diện đối nội, sau khi lật đổ Beria và Malenkov,
phe của Krushchev có nhu cầu đánh gục "bọn tàn dư"
của khuynh hướng Stalin để củng cố quyền lực
cho phe phái của mình, chứ không hề có ý định
thực hiện những cải cách dân chủ.
Trên phương diện đối ngoại, sách lược dụ khị
của Krushchev nhằm quảng cáo cho món hàng "sống
chung hòa bình", lôi kéo một số quốc gia Á Phi
vào một khối trung lập thân cộng gọi là "Phi
Liên Kết", đồng thời mở đầu cho giai đoạn
"Hòa Dịu" nhằm ru ngủ các cường quốc Tây
phương nhất là Hoa Kỳ, với mục đích chính:
Mượn tiền và kỹ thuật Tây phương để phát
triển kinh tế và kỹ thuật Liên Xô, tạo nên phong
trào đòi giảm vũ trang tại các nước Tây phương,
trong khi Liên Xô ngấm ngầm sản xuất vũ khí hạch
tâm chiến lược nhằm đánh thắng trong một
cuộc chiến tranh hạch tâm.
Với thâm ý như trên, Krushchev phái Nikoyan sang Hà
Nội để giải thích cho Hồ Chí Minh và Việt
cộng miền Bắc, về nhu cầu sách lược "xét
lại". Vào lúc đó, Hồ Chí Minh tâm sự với đàn
em rằng "Khí thế của cuộc đấu tranh cải cách
ruộng đất đang phừng phừng bốc cháy, không lẽ
lại dội một gáo nước lạnh vào đầu cán bộ
và anh em nông dân". Vì thế Việt cộng miền Bắc
vẫn bít kín không phổ biến "chính sách mới"
của Liên Xộ Tuy nhiên đứng trước những phản
ứng bạo động của nhân dân, cũng như những bất
mãn của tầng lớp trí thức đã từng tham gia
tích cực ủng hộ Việt Minh trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, vào tháng 3 năm 1956, Hồ Chí
Minh đã phải chuẩn bị kế hoạch dừng taỵ
Những biến cố trên thế giới và phong trào
chống đối trong nước liên tiếp đánh mạnh vào
uy tín của Hồ Chí Minh và giới đầu lãnh Việt
cô.ng. Ngày 26 tháng 5 năm 1956, Mao Trạch Đông công
bố chính sách "Bách Gia Tranh Minh, Bách Hoa Tề
Phóng" nghĩa là các môn phái tư tưởng được
mặc sức phát biểu ý nghĩ của mình như trăm
thứ hoa đua nở. Với chính sách mới, giới trí
thức Trung Quốc được "mở mồm nói trong phạm vi
có sự kiểm soát của Đảng".
Ngày 28-6-1956 công nhân Ba Lan sát cánh với sinh
viên bviểu tình ở Poznan chống lại chế độ
độc tài và đòi Tự Do, cơm áọ Ngày 23-10-1956
công nhân Hung Gia Lợi nổi dậy làm cách mạng ở
Budapest khiến Krushchev phải dùng vũ lực đàn áp
một cách tàn bạọ Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh
cố chờ cho cuộc cải cách ruộng đất kết thúc
với đợt Điện Biên Phủ, mới ra lệnh đình chỉ
mọi vụ hành quyết địa chủ, và tháng 10-1956 Trung
Ương Đảng Việt Cộng ra nghị quyết "sửa sai".
Chiến dịch sửa sai được bắt đầu bằng các
đợt học tập dành cho Đảng viên về nghị quyết
của Hội Nghị lần thứ 20 của Cộng Đảng Liên
Xô, đồng thời, báo chí của nhà nước giải
thích cho quần chúng về sự thay đổi bên Liên
xộ Tiếp theo đó Hồ Chí Minh chọn Trường Chinh
và Hồ Viết Thắng làm con vật tế thần
(Trường Chinh mất chức Tổng Bí Thư Đảng, và
Hồ Viết Thắng mất chức Thứ Trưởng phụ trách
cải cách ruộng đất). Mười hai ngàn đảng viên
còn sống sót trong tù vì bị kết tội là địa
chủ đã được thả rạ Trong số này có nhiều
người đã bị kết án tử hình. Hồ Chí Minh đã
khóc lóc và đổ tội cho cấp dưới phạm phải sai
lầm. Khả năng trình diễn của họ hồ rất cao
khiến nhiều người dân miền Bắc tưởng Hồ
khóc thật, và ít nhiều tin vào sự vô trách
nhiệm của Hồ.
Trong Hội Nghị thứ 10 của Trung Ương Đảng, Võ
Nguyên Giáp thay mặt Đảng đọc một bản thú nhận
những sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất.
Hội nghị Mặt Trận Trung Ương họp để nghiên
cứu các sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất
và chính sách sửa saị Sự sửa sai đưa ra để
xoa dịu lòng dân không có nghĩa là chính sách cải
cách ruộng đất của Đảng sai lầm, và theo như
Võ Nguyên Giáp nhận định trong bản báo cáo lên
Trung Ương Đảng thì thắng lợi cơ bản của cuộc
cải cách ruộng đất là đã đạt được mục tiêu
cốt yếu đề ra, đó là đánh đổ toàn bộ giai
cấp địa chủ. Những sự sai lầm, theo Đảng nhận
định, là do sự "quá tay" của cán bộ, ví dụ như:
- Phủ nhận thành tích kháng chiến của những
người bị đấu tố.
- Không đoàn kết trung nông, liên hiệp phú nông
như đã hứa mà lại đẩy họ vào hàng ngũ kẻ
thù.
- Xử tử oan người ngay, đả kích bừa bãi, tra
tấn đàn áp người vô tộị
- Xúc phạm tới tôn giáọ
- Không nhẹ tay với vùng dân thiểu số.
Hành động "sửa sai" của Việt cộng chỉ là một
"sách lược" để đối phó với tâm trạng công
phẫn bất mãn của nhân dân, tạo một cơ hội
để cho sự công phẫn xẹp xuống, và tránh nguy
cơ một cuộc nổi loạn trên toàn miền Bắc. Căn
bản của cuộc sửa sai là xác nhận chính sách Cải
Cách Ruộng Đất vẫn là đường lối lâu dài
của Đảng và Nhà Nước Việt cô.ng. Nếu có
những "sai lầm" trong việc thi hành chính sách,
thì đó là lỗi của một vài cá nhân đã "quá
tay" làm nhiều người chết oan, và những cá nhân
phạm lỗi khiến hàng trăm ngàn người bị chết
oan chỉ bị khiển trách một cách tượng trưng,
không có ai bị truy tố ra trước tòa án, không có
ai phải đền tội một cách đích đáng. Hồ Chí
Minh và giới đầu lãnh Việt cộng ngang nhiên coi
việc tàn sát giết người là quyền tự nhiên
của Đảng, không cần phải thắc mắc, và nếu có
giết oan vài chục ngàn người thì chỉ cần đổ
tội cho cấp dưới "lỡ tay", và phủi tay xin lỗi
với một thái độ hoan toàn vô trách nhiệm.
Nhưng quần chúng nhân dân miền Bắc không chấp
nhận thái độ đó, và họ đã nắm lấy cơ hội
"sửa sai" để vùng lên.
Tags: ccrđtạimiềnbắcphần3&4
Sunday March 29, 2009 - 08:56pm (PDT) Permanent Link | 0 Comments
CCRĐ TẠI MIỀN BẮC PHẦN 5 & 6
III. Cuộc Đấu Tranh Tiếp Của Nhân Dân Miền Bắc
Lợi dụng hành động phủi tay của Hồ Chí Minh khi
đổ tội cho cấp dưới đi quá trớn, các nạn
nhân còn sống sót sau đợt đấu tranh Cải Cách
Ruộng Đất đã tìm những cán bộ cải cách để
trả thù. Tình trạng rối loạn được mô tả trong
cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc" như dưới
đây:
"Sau khi các đảng viên trung kiên được tha từ
nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi
phục đảng tịch và chức vụ thì họ tìm ngay đến
các "đồng chí" đã "tố sai" để trả thù. Do đó
tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên
cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơị Uy
tín của Đảng bị xụp đổ, cán bộ đâm ra hoang
mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói
một cách hài hước: "Lạc quan sai; bi quan cũng sai;
chỉ có hoang mang mới đúng". Nhân dân được dịp
đòi lại ruộng nương nhà cửa bị tịch thụ
Ở nông thôn các đảng viên đi họp phải mang búa
theo để "thảo luận" với nhaụ Những địa chủ
được tha về, thấy tình trạng làng xóm như
vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia
đình "tiểu tư sản" hồi kháng chiến đã trú ngụ
tại nhà mình. Các bần cố nông, chót nghe lời
Đảng "tố điêu" nay sợ bị rạch mồm, cắt
lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp
xích-lô và đi ở thuệ Vì vậy nên dân số ở
Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và
không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố,
lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí
thức. Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở
Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân "Nam bộ tập
kết" đập phá bót cảnh sát Bờ hồ Hà Nội (bên
cạnh ga tầu điện, đầu phố Cầu gỗ)".
Tại khắp các vùng nông thôn miền Bắc, đâu đâu
người ta cũng thấy những vành khăn tang của thân
nhân những người bị giết trong cải cách ruộng
đất. Cho tới nay, không ai biết được con số
chính xác những nạn nhân bị Việt cộng tàn sát.
Chỉ có một yếu tố then chốt để giúp người
ta ước lượng số nạn nhân đó là yếu tố
"kích tỷ lệ" được đề cập ở phần đầụ
Với dân số miền Bắc vào giai đoạn 1956 khoảng
chừng 20 triệu người tức là vào khoảng 4 triệu
gia đình nông dân, ta hãy giả sử 2% gia đình nông
dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ
nằm trong sổ đen của Việt cô.ng. Qua kỹ thuật
"kích tỷ lệ", những tên cán bộ trung kiên trong
các đội cải cách đã thực hiện đúng chỉ tiêu
bằng cách phát hiện và đem ra giết đủ tỷ lệ
tối thiểu là 2% mỗi xã. Như vậy trên toàn
miền Bắc, những gia đình nông dân có thể bị
giết ít nhất là 80.000 người trong cuộc cải
cách ruộng đất nếu các đội cải cách "kích tỷ
lệ" theo đúng chỉ tiêu của Đảng đề rạ
Trong lịch sử Việt Nam, chưa ai nghe thấy có thời
kỳ nào lực lượng ngoại bang thống trị đã tàn
sát nhân dân một cách lạnh lùng máy móc như
vậỵ Nỗi căm hờn uất hận của nạn nhân cải
cách ruộng đất cùng thân nhân của họ đã lên
tới mức cùng cực, nhưng sau khi Hồ Chí Minh đưa
ra chính sách sửa sai, thì chế độ Việt cộng
đã thoát khỏi một cuộc nổi loạn bạo động lan
rộng vì một số nguyên nhân chính:
a) Đa số những người mà tính mệnh bị đe dọa
đồng thời là những người có tiềm năng lãnh
đạo nổi loạn thì đã chết rồi, còn lại một
số nhỏ được tha về và được khôi phục lại
công quyền, tự coi là mình đã thoát chết trong
đường tơ kẽ tóc và cần được yên thân. Mặc
dù có một số người liều mạng đi tìm đội
cải cách để trả thù, nhưng hầu hết không dám
có ý định chống lại kẻ chủ mưu đại gian đại
ác là Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động, hoặc là
vì họ tưởng cấp dưới làm sai chính sách Đảng,
hoặc vì họ nhìn ra Hồ Chí Minh và Đảng của họ
Hồ quá nguy hiểm và quá ma.nh. Nguy hiểm vì chúng
ném đá dấu tay, xúi giai cấp nọ giết giai cấp
kia để chúng bảo toàn lực lươ.ng. Mặt khác,
chúng quá mạnh vì có súng đạn trong tay, còn họ
thì thân cô thế cộ
b) Phần đại đa số nông dân còn lại là phú
nông, trung nông và bần nông thì như cá nằm
trốc thớt. Tuy tính mạng của họ chưa bị đe dọa
vì chưa bị liệt vào hàng cường hào địa chủ
nhưng trông gương những vụ đấu tố chụp mũ, họ
biết rằng bất cứ ai cũng có thể bị kết tội
là "liên quan" hoặc "phản động" ("liên quan" là
nói tắt của "liên quan với địa chủ cường
hào").
Vậy, cho dù có nhiều người trong lòng còn căm
hận, nhưng ngoài mặt không dám ngo ngoẹ Duy có
một thành phần trí thức văn nghệ sĩ dám hiên
ngang đứng lên chống Đảng và kể tội Đảng.
Thành phần này gồm có những nhân vật đã tham
gia kháng chiến từ những ngay đầu cho tới khi
kháng chiến chống Pháp thành công. Đó là những
người đã nằm trong lòng của cuộc kháng chiến
chống Pháp và đã nhìn ra bản chất cộng sản của
bọn Hồ Chí Minh. Là những người có tinh thần
Quốc Gia, một số những người này đã ngây thơ
lựa chọn con đường chống thực dân trước, cho
tới khi thành công rồi sẽ thanh toán cộng sản sau
(!!!). Một số còn lại đã tìm cớ nọ cớ kia
để từ từ ngưng hợp tác với Đảng ngay từ
trước khi kháng chiến chống Pháp thành công,
mặc dầu họ vẫn được mọi người mến chuộng
và được coi là giới trí thức và văn nghệ sĩ
kháng chiến.
Là những người nặng lòng với đất nước,
giới trí thức và văn nghệ sĩ kháng chiến về
thủ đô đã rất đau lòng và căm hận chính sách
tương tàn của bọn Hồ Chí Minh, và lợi dụng hoàn
cảnh thuận lợi khi họ Hồ đề ra chính sách sửa
sai, giới trí thức văn nghệ sĩ đã vùng lên
đấu tranh, tạo nên một chấn động trong dư
luận thế giới sau khi có cuộc nổi dậy của
nông dân Quỳnh lưu, Nghệ An.
Cuộc nổi dậy của nông dân Quỳnh Lưu gây một
chấn động lớn vì nó xảy ra ngay tại tỉnh Nghệ
An, quê quán của Hồ Chí Minh, và nó cho thấy ngay
đối với nhân dân tỉnh nhà, Hồ Chí Minh là một
đứa con vô liêm sỉ bị từ bỏ. Hồ Chí Minh rất
căm hận hành động nổi dậy, nên đã dùng các
sư đoàn Nam Bộ Tập Kết để đàn áp, giết và
đày ải hơn 6.000 nông dân, đồng thời cố tình
bít kín mọi tin tức liên quan đến cuộc nổi
dậy này không lọt ra thế giới bên ngoàị
Trong khi nông dân Nghệ An nổi dậy dùng gậy
gộc, dáo mác đánh Việt cộng thì văn nghệ sĩ
miền Bắc dùng ngòi bút, đánh Việt cộng bằng
những bài văn, những lời thơ sắc như thép:
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá
(Phùng Quán trong bài "Lời mẹ dặn")
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (4)
Trong khi thế giới biết rất ít về những chi
tiết của cuộc nổi loạn của nông dân Quỳnh Lưu,
thì trái lại những tài liệu của cuộc nổi dậy
của văn nghệ sĩ miền Bắc đã được bí mật
gởi ra ngoài, bằng giấy trắng mực đen, khiến
cho lịch sử văn học đã ghi được đầy đủ chi
tiết về nội dung cuộc nổi dậy, những văn
nghệ sĩ tham gia và đường lối đấu tranh của
giới văn nghệ sĩ miền Bắc, v.v.... Nhờ đó,
những văn thi họa phẩm của giai đoạn "Trăm Hoa
Đua Nở" trên đất Bắc đã không bị mai một, dù
cộng sản tìm cách thủ tiêu, và những tài liệu
trên đã đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc,
tiêu biểu cho một trong những giai đoạn văn học
phản ảnh trung thực sức đấu tranh dũng mãnh của
dân tộc.
1. Nội Dung Cuộc Nổi Dậy Của Văn Nghệ Sĩ Và
Trí Thức Miền Bắc
Diễn đàn của giới trí thức văn nghệ sĩ đấu
tranh khởi đầu là cuốn sách Giai Phẩm 1956 còn
gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản vào
khoảng tháng 3-1956, trước khi có chiến dịch sửa
sai . Sau khi Nikoyan sang Hà Nội giải thích chính
sách của Liên Xô, đưa đến vụ sửa sai, thì phong
trào nổi dậy đã bùng lên với Giai Phẩm Mùa Thu
(29-8-1956) Giai Phẩm Mùa Đông (1956), tờ báo Nhân
Văn (liên tiếp trong nhiều số), tờ Đất Mới,
tuần báo Trăm Hoa, tờ nhật báo Thời Mới, và
ngay cả báo Văn của Đảng. Tuy nhiên, tiêu biểu
nhất trong những tài liệu trên là báo Nhân Văn
và các quyển Giai Phẩm, cho nên người ta quen gọi
phong trào nổi dậy của văn nghệ sĩ là Phong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm
Nội dung của Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm là
đấu tranh chống chế độ Việt cộng trên hai
lãnh vực chính:
- Đường lối chính sách của Đảng
- Hệ thống lãnh đạo của Đảng
Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm đánh vào đường
lối chính sách tức là đánh tận gốc Chủ Nghĩa
Cộng Sản, chĩa mũi dùi vào chủ trương giai cấp
đấu tranh người bóc lột người, chính sách cải
cách ruộng đất, chính sách cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh tại thành thị, đồng thời
tấn công vào liên minh giai cấp đấu tranh giữa
Việt cộng và Trung Quốc. Một trong những tài
liệu quan trọng nhất thuộc loại này là cuốn
"Nắng Chiều" của cụ Phan Khôi, gồm nhiều bài
bút ký, tạp văn, bị Việt cộng cấm xuất bản,
may nhờ có Đoàn Giỏi, một cán bộ Đảng đem ra
mổ xẻ phê bình trên báo Văn Nghệ của Đảng số
15, xuất bản tháng 8-1958, người ta mới biết về
nó. Sau đó, Đoàn Giỏi đã bị phê bình kiểm thảo
là cố tình mổ xẻ chửi bới cụ Phan Khôi nhằm
mục đích phổ biến tài liệu chống Đảng. Tội
nặng nhất của cụ Phan khôi được phát hiện
trong cuốn Nắng Chiều nằm trong các chuyện Nuôi
vịt ở miền Nam, "Tiếng Chim", "Thái Văn Thu" và
chuyện Ba Ông Vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu
Thống.
Trong chuyện "Tiếng Chim", cụ Phan Khôi đã thuật
chuyện hai con quạ không dành nhau miếng ăn để
ngụ ý mỉa mai vấn đề đấu tranh giai cấp là
vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong
chuyện Nuôi vịt ở miền Nam, cụ Phan Khôi thuật
lại cách làm việc và cách sống của chủ và
người làm thuê đều cực khổ như nhau, đồng
thời chủ chẳng những trả công cho thợ mà còn
chia hoa hồng cho thợ mỗi khi được mùa, vừa có
ý ám chỉ rằng cảnh người bóc lột người theo
quan niệm đấu tranh giai cấp là không hoàn toàn
có thực mà còn có ý ám chỉ Đảng bóc lột
người hơn những người chủ nuôi vịt. Trong
chuyện "Ba Ông Vua", Đoàn Giỏi giải thích rằng cụ
Phan có ý ám chỉ "quan hệ ngoại giao giữa Quang
Trung và Càn Long ngày xưa không khác gì quan hệ
hữu nghị giữa ta và Trung Quốc ngày nay, một con
cáo và một con sói đồng tình vật chết một con
dê".(Xem Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 94)
Ngoài việc đả kích tư tưởng đấu tranh giai
cấp, căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm còn kêu gọi mọi người
đứng lên chống lại chủ nghĩa đó. Trong bài
"Tiếng Hát", một vở kịch thơ ngắn, Hoàng Cầm
đã cất tiếng kêu gọi qua tiếng hát của Trương
Chi:
Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này...
để ám chỉ những nạn nhân của cải cách ruộng
đất, và tiếp theo đó kêu gọi mọi người hãy
theo "Tiếng gọi của trời cao, của đất rộng"
quyết "Vượt qua tường đá" của hệ thống kềm
kẹp áp bức của Việt cô.ng.
Một mặt chống đường lối chủ trương Đấu
Tranh Giai Cấp của Đảng, một mặt khác Phong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm đánh thẳng vào hệ thống
lãnh đạo Đảng gồm có con người và tổ chức.
Về con người lãnh đạo, các văn nghệ sĩ đánh
từ Hồ Chí Minh trở xuống cho tới các cán bộ
cao cấp Trung Ương như Trường Chinh, các cán bộ
lãnh đạo văn nghệ như Tố Hữu, Hoài thanh, Xuân
Diệu mà mọi người gọi là những tên "cai văn
nghệ".
Một nhà thơ trẻ là Lê Đạt đã dám ví Hồ Chí
Minh như cái bình vôi:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Cụ Phan Khôi còn viết bài "Ông Bình Vôi" trong Giai
Phẩm Mùa Thu tập I, với một câu giải thích
rằng cái bình vôi sống lâu "cũng như pho tượng
đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích,
thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng
"Ông". Chẳng những cụ đánh thẳng vào Hồ Chí
Minh mà còn đánh luôn những bọn văn nô đã tôn
thờ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh nữạ Cụ Phan
Khôi còn chọc quê Hồ Chí Minh là Ông Bình Vôi vì
Hồ Chí Minh đã phạm tội tầy đình trong cuộc
cải cách ruộng đất, mà còn giả đò ù lỳ vô
trách nhiệm, phủi tay chối tội và bắt Trường
Chinh chịu tội thay cho mình.
Bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần đã
khiến nhà thơ này bị ngồi tù, bị đấu tố và
đã dùng lưỡi dao cạo cứa cổ tự tử mà không
chết. Trần Dần là nhà văn Đảng viên thuộc
giới trẻ trong Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, đã
tham dự trận Điện Biên Phủ, sau đó vì chống
Đảng mà bị đi tù ở Việt Bắc. Tới khi dư
luận chống đối của giới trí thức kháng chiến
trở nên quá sôi nổi, Trần Dần mới được
Việt cộng đưa về miền đồng bằng và bắt đi
theo chiến dịch cải cách ruộng đất. Tiếp theo
đó xảy ra Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, Hoàng
Cầm là bạn của Trần Dần đã đem in một bài
thơ của Trần Dần vốn được viết từ năm 1954
với nội dung đấu tranh chống đối, đồng thời
đề nghị Trần Dần viết thêm một đoạn cho có
"lập trường tốt" như thế mới được phép
xuất bản và đặt tên bài thơ là "Nhất định
thắng". Ngay trong phần đầu có tính chất đấu
tranh, Trần Dần cũng đánh bằng những đòn rất
kín khiến Việt cộng dù đem ông ra đấu tố,
cũng chỉ bắt bẻ bâng quơ về cách dùng chữ
không ổn, "phạm húy". Đọc bài thơ Nhất định
thắng của Trần Dần, người ta phải đặt mình
vào khung cảnh 1954 với không khí bàng hoàng của
Hiệp Định Genève cắt đôi đất nước, hàng
triệu người nông dân miền Bắc hốt hoảng bỏ
trốn cộng sản, trong tâm tư họ còn hằn vết
thương đỏ lòm của đấu tranh Giảm Tô trước
1954, rồi cảnh gia đình xé đôi vì người đi Nam
kẻ ở lại Bắc (người vợ trẻ của Trần Dần
lạc lõng giữa Hà Nội vì cha mẹ đã di cư), rồi
cảnh bộ đội Nam bộ tập kết được sử dụng
để đàn áp cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưụ Có
đặt mình vào hoàn cảnh 1954 người ta mới
mường tượng đọc ra được những ẩn ý lên án
Hồ Chí Minh chia đôi đất nước bằng cách ký
Hiệp Định Genève:
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi dao cùn
Không giết được, mà đau
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem có phải vết daỏ
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máụ
Và kế đến là cảnh đát nước miền Bắc ngập
trong điêu linh dưới chế độ mới:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ....
Rồi bằng những câu hỏi "buộc tội" đối với
trách nhiệm về phong trào di cư, Trần Dần cầm
bút chỉ vào Hồ Chí Minh:
"Họ vẫn ra đi
Nhưng sao bước rã rờỉ
Sao họ khóc? Họ có gì thất vọng?"
Và:
"Ai dẫn họ đỉ
Aỉ
Dẫn đi đâủ
Mà họ khóc mãi thôi"
Và cũng vẫn bằng những câu hỏi làm Việt cộng
không trả lời được:
Ai có lý và ai có lực?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Cuối cùng, Trần Dần phang bốn câu làm cán bộ
lãnh đạo văn hóa của Việt cộng hết nhịn nổi:
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội -
Người chưa kiên nhẫn mấỵ
Trần Dần bị hạch tội đã dùng danh từ "Người"
viết bằng chữ lớn xưa nay được cán bộ Việt
cộng dùng để chỉ Hồ Chí Minh với sự tôn sùng
tột đô.. Tuy Trần Dần bị bỏ tù nhưng cán bộ
Việt cộng không dám nói đích danh tội phỉ báng
Hồ Chí Minh của Trần Dần cũng như của cụ Phan
Khôị Giống như dưới thời đại "cực kỳ phong
kiến", riêng việc nhắc tới những lời "khi
quân" phỉ báng của người khác cũng đủ là một
sự phạm thượng đại nghịch, và không một tên
Việt cộng nào dám làm.
Ngoài việc tấn công tên đầu sỏ của Việt
cộng, các văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc
còn đả kích hệ thống lãnh đạo Việt cộng qua
tổ chức "Hội các nhà văn", tổ chức Mậu Dịch
Quốc Doanh, đồng thời đả kích tính chất phi
pháp của cải cách ruộng đất qua bài tham luận
của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường mà ta sẽ có dịp
đề cập tới trong một đoạn khác.
* Trên đây ta đã tóm lược cuộc đấu tranh
tiếp theo của Nhân Dân miền Bắc để chống lại
sự phản bội kháng chiến của Hồ Chí Minh và
cuộc tàn sát dã man qua Cải Cách Ruộng Đất.
Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm tượng trưng cho
một cuộc nổi dậy có tổ chức và tư tưởng
chỉ đạo quy mô hơn cả. Tuy nhiênnó cũng có
nhược điểm quan trọng và đã bị dập tắt sau
khi Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh ngày 15-12-1956
chính thức hủy bỏ quyền tự do ngôn luận, cấm
lưu hành tất cả các nhật báo, tạp chí, sách vở
văn nghệ phẩm chống đốị
Trước khi ký sắc lệnh bịt miệng văn nghệ sĩ,
Hồ Chí Minh đã phóng ra một chiến dịch dùng báo
chí Đảng chụp mũ tội "gián điệp" của Pháp và
của Mỹ lên đầu nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, tổ
chức học tập khắp nơi, và cán bộ Đảng thúc
đẩy các đoàn thể công nông binh, học sinh và
dân Nam bộ tập kết ký kiến nghị tự xưng là
"mọi từng lớp nhân dân" đòi nhà nước trừng
trị nhóm Nhân Văn.
Sau khi bịt miệng văn nghệ sĩ, Việt cộng chỉ cho
phép báo của Đảng múa võ một mình. Hội văn
nghệ của Đảng được chỉ thị cho ra báo Văn.
Nhưng múa võ một mình trong một thời gian, báo
Văn trở nên nhạt nhẽo quá khiến ban chủ nhiệm
cũng phải cảm thấy nản, và quay ra chống Đảng
bằng cách đăng những bài của nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm. Việt cộng bèn đàn áp thẳng tay, bắt 304
văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn, sau đó đi "Lao Động
Cải Tạo" ở những vùng rừng thiêng nước độc
của Việt Bắc. Hành động bịt miệng và đàn áp
thẳng tay đối với văn nghệ sĩ đã tạm thời
chấm dứt một hình thức chống đối trên Mặt
Trận Văn Hóa, nhưng chưa chấm dứt phong trào
đấu tranh của nhân dân dưới các hình thức
khác. Cuộc đấu tranh phi quy ước giữa Việt
cộng và các tầng lớp nhân dân bị áp bức còn
đương diễn ra trên Mặt Trận Kinh Tế qua các
giai đoạn tiếp theo gồm có công hữu hóa ruộng
đất vườn ao, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác
xã cấp cao,v.v...
Các cuộc đấu tố của giai đoạn đã qua cho tới
năm 1956 mới chỉ là Màn I của tấn kịch cải cách
ruộng đất.Giai đoạn đấu tranh từ 1951 đến
1956 đưa tới vụ sửa sai và Phong Trào Nhân Văn -
Giai Phẩm có một số đặc điểm rất điển
hình đáng cho ta ghi chép lại đâỵ
IV. Những Đặc Điểm Của Giai Đoạn Cải Cách
Ruộng Đất 1951-1956 Đưa Đến Chiến Dịch Sửa
Sai
Những nỗ lực và những hoạt động của cộng
sản nhằm dành giựt quyền lực hoặc từ vai trò
có quyền lực trong tay để đàn áp quần chúng
nhân dân, tất cả đều là những nỗ lực và
hoạt động của chiến tranh mặc dầu nhiều khi
không có tiếng súng nổ. Đó là cuộc chiến tranh
diễn ra từ 1951 tới 1956 phối hợp hai loại đặc
điểm nổi bật:
- Những đặc điểm có tính cách chiến tranh phi
quy ước
- Những đặc điểm có tính cách Mác-xít
Lênin-nít điển hình
Nếu ta còn nhớ những đặc điểm của chiến
tranh phi quy ước trong bài nghiên cứu đầu tiên
đại cương về chiến tranh quy ước và phi quy
ước, ta sẽ thấy lại những đặc điểm này trong
cuộc cải cách ruộng đất của giai đoạn 1951-1956.
1. Dựa vào lực lượng quần chúng
Đây là một đặc điểm điển hình của chiến
tranh phi quy ước cũng như của chiến dịch Đấu
Tranh Chống Phản Động, Đấu Tranh Giảm Tô, Đấu
Tranh Cải Cách Ruộng Đất. Để tiêu diệt mầm
mống chống đối, Việt cộng đã không sử dụng
biện pháp pháp lý, biện pháp hành chánh, hay sử
dụng cảnh sát công an, quân đội, mà đã huy
động nông dân, bằng cách nhóm Đại Hội Nông
Dân, dùng các "đội đấu tố" và "đội cải
cách" xâm nhập vào dân để xách động dân, làm
như thể nông dân đứng chủ động đòi tiêu
diệt phản động, tiêu diệt địa chủ. Việt cộng
còn công khai giải tán hệ thống hành chánh xã
trong giai đoạn "đội cải cách" về làng phát
động đấu tranh, bề ngoài làm như đề cao
quyền lực của nông dân, nhưng thực sự bên trong
là gán ghép trách nhiệm cho dân, làm cho bàn tay
nông dân có dây máu địa chủ, nghĩa là nếu họ
không có chủ động thì ít ra cũng là kẻ đồng
lõa tội ác.Ta.i sao họ Hồ lại cần có liên minh
tội ác đó? Theo sự suy đoán của các hồi chánh
viên có liên hệ tới cải cách ruộng đất thì
một trong những lý do có tính cách chiến lược
là tương quan lực lượng giữa Đảng và giới
địa chủ, phú nông, trung nông và tất cả nông dân
hữu sản cho thấy Đảng là thiểu số. Quan niệm
dựa vào lực lượng quần chúng vừa là một
đặc điểm của chiến tranh phi quy ước lại vừa
phù hợp chủ trương cố hữu của cộng sản và kỹ
thuật đấu tranh của cộng sản. chủ trương của
cộng sản là tiêu diệt tư hữu, tiêu diệt tư
sản, tất nhiên phải tiêu diệt địa chủ là những
phần tử tư sản "ngoan cố" nhất. Kỹ thuật đấu
tranh của cộng sản là "lấy mâu thuẫn giải quyết
mâu thuẫn": nghĩa là Tạo ra mâu thuẫn giữa các
lực lượng thù địch đẩ các lực lượng này
tiêu diệt lẫn nhau và cộng sản ngồi rung đùi
hưởng lợị Đó là chiến lược xúi Ngô đánh
Ngụy để mình lấy ngon đất Kinh Châu (Tam Quốc
Chí). Áp dụng vào trường hợp đấu tranh cải
cách ruộng đất, "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu
thuẫn" là lấy bần cố nông giải quyết bài toán
địa chủ. Nếu dùng biện pháp pháp lý để cải
cách ruộng đất như các nước Á Châu khác,
Việt cộng phải quốc hữu hóa hoặc mua rẻ ruộng
đất của địa chủ rồi chia cho nông dân, như thế
đích thân Đảng phải đối phó với khoảng 1
triệu người thuộc thành phần địa chủ phú nông
và trung nông, mà trong đó có nhiều người có
công với kháng chiến, có uy tín với dân. Tự
lực đối phó với khoảng 1 triệu có tư sản,
trong khi đảng viên nòng cốt của Việt cộng lúc
đó chưa đầy 500 ngàn người là một việc nguy
hiểm.
2. Bất chấp pháp lý, bất chấp quy ước hành
chánh
Đây là đặc điểm thứ hai của cộng sản khi áp
dụng hình thái chiến tranh phi quy ước vào cải
cách ruộng đất. Chẳng những Việt cộng không
sử dụng các biện pháp pháp lý và các quy ước
hành chánh thông thường, mà chúng còn trắng
trợn vi phạm các nguyên tắc pháp lý và hành
chánh được coi là khuôn mẫu để duy trì trật
tự quốc gia và xã hội của các nước văn minh
từ 400 năm quạ
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, qua bài diễn văn
đọc ngày 30-10-1956 trong một cuộc họp của Mặt
Trận Tổ Quốc Hà Nội, đã nêu lên những vi
phạm nguyên tắc pháp lý, trong Cải Cách Ruộng
Đất:
a) Nguyên tắc thứ nhất: Không hành phạt các tội
đã phạm quá lâu rồi mới bị khám phá vì khó
xác định các bằng chứng buộc tộị Khi buộc
tội một người với những bằng chứng hồ
đồ, xã hội sẽ tạo ra những tiền lệ bất công
làm mất uy tín của cơ chế cầm quyền và gây
xáo trộn xã hộị Việt cộng đã vi phạm thô bạo
nguyên tắc thư nhất khi mớm cung cho những bần
cố nông vu oan gia họa cho nạn nhân Cải Cách Ruộng
Đất về những tội đã phạm từ mấy chục năm
trước, dựa vào những bằng chứng hồ đồ (như
hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân đã tường
thuật).
b) Nguyên tắc thứ hai: Theo lời Luật sự Nguyễn
Mạnh Tường: Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ
một mình phạm nhân phải chịu, không có trách
nhiệm chung với vợ con, của gia đình", chỉ trong
thời đại phong kiến dã man mới có luật tru di
tam tộc để trừng phạt bà con họ hàng của
người có tộị Nhưng riêng trong chế độ Việt
cộng, không những thân nhân của người có tội
phải trả nợ máu, mà ngay cả những người không
có liên hệ máu mủ gì với nhau mà cũng bị chết
chùm với nhau vì mang cái nhãn hiệu chung là địa
chủ, phú nông. "Kích tỷ lệ" là một vi phạm thô
bạo của nguyên tăc thứ hai về pháp lý.
c) Nguyên tắc thứ ba: Theo luật sư Nguyễn Mạnh
Tường là "muốn kết án một người phải có
bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là
những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai
một cách cụ thể, rõ ràng và chắc chắn. Một
nhân chứng thôi cũng chưa đủ, ít ra phải có hai
nhân chứng khai phù hợp với nhau, mới được là
đáng kể... Khi nêu lên nguyên tắc thứ ba trên
đây, có lẽ ông Nguyễn Mạnh Tường muốn ám chỉ
những vụ Đấu Giảm Tô như anh Nguyễn Văn Thân
thuật lại, ví dụ: "Một cái sẹo cũ vì bị ngã
từ hồi còn bé sẽ được trình bày là vết dao
chém của địa chủ ác ông... Hoặc nếu một bà
lão rụng hết tóc vì già hay vì bệnh hoạn thì sẽ
dùng chứng tích này để tố địa chủ nắm tóc
giật đánh", (xem bài trước). Những bằng chứng
cần thiết để chứng tỏ vết dao chém tối
thiểu là phải trình bày được con dao có vết
máu của nạn nhân. Vì bất chấp nguyên tắc thứ
ba trên đây, trong giai đoạn "Đấu tranh chống
phản động" đội cải cách của Việt cộng đã
"mớm cung theo dây chuyền", khiến nhiều nạn nhân
đã khai lung tung ra ngoài sự dự liệu của cán
bộ Đảng và làm trò cười cho đấu trường cải
cách, cũng như làm trò cười cho lịch sử mai
hậụ
d) Nguyên tắc pháp lý thứ tư: "Thủ tục điều
tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố
nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào
chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ
luật sư, khi nào là một trọng tội, tòa phải cử
luật sư bào chữa không, cho bị can... Khi điều
tra, thẩm vấn, tuyệt đối không được dùng
phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị cn,
mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ đương
sự"...
3. Thủ Tiêu Chế Độ Pháp Trị Chân Chính
Một chế độ pháp trị chân chính phải xác định
rõ đâu là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi
người từ thường dân cho tới người lãnh đạọ
Việt cộng chẳng những thủ tiêu quyền lợi của
người dân qua việc bất chấp các nguyên tắc
pháp lý căn bản, mà còn lờ luôn trách nhiệm
pháp lý của cấp lãnh đạo đảng, nhất là họ
Hồ, tên chủ mưu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng
Đất đẫm máụ Về điểm này ông Nguyễn Mạnh
Tường viết: ..."Trước hết, bức thư của ông
Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi
Mặt Trận Trung Ương chỉ là một giải pháp chính
trị mà thôi..." "...là một nhà luật học, tôi
chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của
ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất
lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp
lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ
để quy định trách nhiệm của người ấy...".
Lập luận của ông Nguyễn Mạnh Tường có ý nói
rằng:
Thứ nhất: Giải pháp hạ tầng công tác Trường
Chinh và sự từ chức của Hồ Viết Thắng chỉ là
một giải pháp chính trị, và nếu ngưng ở đó,
Việt cộng đã cố tình xí xóa trách nhiệm pháp
lý đối với các vụ sát nhân có mưu định rõ
ràng. Và ông Tường gọi đó là "chính trị lấn
áp pháp lý".
Thứ hai: Trách nhiệm của Hồ Viết Thắng có thể
rất lớn, có thể rất nhỏ, nghĩa là nếu Hồ
Viết Thắng chỉ là một kẻ thừa hành, thì cần
phải truy nguyên ra cái trách nhiệm pháp lý cao
chót vót là Trung Ương Đảng và Hồ Chí Minh.
Không xác định quyền lợi cùa người dân và
trách nhiệm pháp lý của Đảng và nhà nước Việt
cộng đã thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính.
Mà thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính là một
đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển
hình. Và nó là nguyên nhân của bao xương máu,
chết chóc và đau thương diễn ra trên đất Việt
Nam từ hơn 30 năm naỵ
Bài nghiên cứu này kết thúc một giai đoạn đặc
biệt của Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, và
không có nghĩa cuộc cải cách ruộng đất của
Việt cộng đã chấm dứt khi ruộng đất được
lấy từ địa chủ để chia cho nông dân nghèọ
Không! Sau khi chia ruộng cho nông dân nghèo, Việt
cộng đã từ từ lấy lại hết tất cả ruộng
đất tài sản của họ qua các chiến dịch Tổ Đổi
Công, Hợp Tác Xã Cấp Thấp, Hợp Tác Xã Cấp
Cao,v.v... song hành với các kế hoạch kinh tế 3
năm, kế hoạch kinh tế 5 năm,v.v.. mà chúng ta sẽ
nghiên cứu trong những bài tớị
Trong phần kết luận của bài này, chúng ta hãy
đưa ra một nhận xét về trách nhiệm chính trị
và pháp lý của một hành động liên quan đến
trật tự công cộng và tính mạng của người dân.
Một người thường dân phạm tội giết người
phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành động đó.
Nếu việc giết người có chủ mưu, đó là một
trọng tội về hình sự, và hình phạt thường là
lấy mạng đền ma.ng. Một cấp lãnh đạo chính
trị, nếu giết người có chủ mưu vì mục đích
chính trị thì phải chịu trách nhiệm về pháp lý,
và sau đó còn phải chịu thêm trách nhiệm về
chính tri.. Trách nhiệm pháp lý càng gia tăng gấp
bội nếu là tội tàn sát nhiều người với sự
dự mưu kỹ càng. Một chế độ, một tập đoàn
thống trị phạm tội tàn sát tập thể cả trăm
ngàn người cũng phải chịu trách nhiệm chính trị
và pháp lý như trường hợp chế độ phát xít
Đức, phát xít Ý và quân phiệt Nhật,v.v...
Những kẻ lãnh đạo, tùy theo trách nhiệm và sự
dự mưu đều phải đền tội cả về phương diện
chính trị và pháp lý. Trước hết bị tước hết
quyền hành chính trị và sau đó lấy mạng đền
ma.ng.
Công lý đã được thi hành tại Đức, tại Ý, tại
Nhật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, và trật tự quốc
gia nhờ đó đã được tái lập tại Đức, tại
Ý, tại Nhật. Nhưng cũng kể từ sau Đệ Nhị Thế
Chiến, vì Liên Xô không bị trừng phạt về những
tội diệt chủng nên các chế độ cộng sản từ
Âu sang Á đã thừa kế thủ tiêu nền pháp trị
chân chính. Chúng phủi tay chối bỏ mọi trách
nhiệm pháp lý đối với tội ác của chúng vì
nhân dân bất lực trước họng súng đàn áp, và
vì công lý không có sức mạnh để thực thị
Ở Việt Nam, Hồ chí Minh và đảng Việt cộng đã
phạm nhiều tội ác chồng chất. Tội tàn sát
trong Cải Cách Ruộng Đất chỉ là một trong nhiều
tội ác tày đình của chúng trong hơn 30 năm quạ
Mỗi lần gặp khó khăn vì nhân dân ta đấu tranh,
chúng lại tìm cách xoa dịu, xí xóa, khi thì bằng
chính sách sửa sai, khi thì bằng chính sách nới
lỏng các biện pháp kềm kẹp kinh tế, khi thì
bằng màn xiệc "đổi mới tư duy". Nhưng luôn
luôn có nhiều người bị chúng lường gạt, và
mỗi lần như thế, Việt cộng lại chối bỏ
được trách nhiệm về tội ác, và trở nên mạnh
hơn khi những nhóm người hoặc thế lực ngu
xuẩn giúp chúng cơ hội và phương tiện phục
hồi sức mạnh để tiếp tục tội ác.
Ngày nay, dân ta đã thức tỉnh, và đã đấu tranh
mạnh mẽ buộc Việt cộng phải lãnh trách nhiệm
đối với tội ác của chúng. Dân ta cương quyết
thì hành động công lý bằng cách lật đổ chế
độ Việt cộng và thiết lập một nền pháp trị
chân chính, nghĩa là bất cứ tập đoàn nào phản
nước hại dân phải chịu trách nhiệm chính trị và
pháp lý trước toàn dân, tức là trả lại quyền
hành chính trị và chịu sự phán đoán của luật
pháp quốc giạ Nhân Dân Việt Nam coi những biện
pháp "sửa sai" hoặc "cởi mở" hoặc "đổi mới"
hoặc "hòa giải hòa hợp" là những trò xiệc bịp
bợm để bịp những nhóm người ngu xuẩn, hoặc
đón gió làm tay sai cho ngoại bang.
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (5)
* Mục Tiêu Của Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp: Khống
Chế Nông Dân Bắc Việt
Giai đoạn đấu tố địa chủ và lấy ruộng đất
chia lại cho bần cố nông chỉ là màn I của tấn
kịch Cải Cách Ruộng Đất. Mỗi bần cố nông
được chia một mảnh đất nhỏ, một số nồi
niêu, xoong chảo, bàn ghế, giường nằm của địa
chủ, cuốc xẻng cầy bừa, kể cả chổi cùn, rế
rách. Đối với bần cố nông chất phác, đây là
một cuộc đổi đời chưa bao giờ họ ngờ tớị
Trong thời kỳ đấu tố địa chủ, các bần cố
nông bị xúi giục, bị áp lực của cán bộ Đảng
đi đến chỗ đồng lõa tội ác nhúng tay vào máu
địa chủ; nhưng đến giai đoạn sửa sai, họ bị
trả thù khiến nhiều người phải bỏ nông thôn
chạy ra thành thị đi ở đơ.. Những người còn
lại biết rằng số phận của họ khá bấp bênh,
tuy nhiên điều mà họ không ngờ nhất là: Cuộc
"đổi đời" chỉ cho họ hưởng tài sản chiếm
được của địa chủ trong một thời gian rất
ngắn. Họ không biết rằng Đảng cho tay này nhưng
sẽ lấy lại bằng tay kia với những thủ đoạn
tráo trở lừa lọc tinh vi, khiến ngay cả những
người khôn ngoan, có kiến thức hoặc có thế
lực còn không thể ngờ.... Sau khi đã lợi dụng
bần cố nông để đạt mục tiêu chiến lược giai
đoạn là đánh gục giai cấp địa chủ, Việt cộng
dần dần tước hết tài sản của trung nông kể
cả bần cố nông qua chính sách công hữu hóa toàn
bộ ruộng đất vườn aọ
Cuộc cải cách được gọi là "long trời lở
đất" ở miền Bắc đã đập nát các giai cấp,
các thế lực ở nông thôn. Đối với giai cấp
phú nông địa chủ, đó là một kinh nghiệm đẫm
máu mà họ nhớ và sợ cho đến suốt đờị Đối
với giai cấp trung nông, tuy chưa nếm mùi đau
đớn nhục nhã, nhưng họ biết họ chỉ là con cá
đang nằm trên thớt. Còn giới bần cố nông,
những người chất phác, chưa có kinh nghiệm lãnh
đạo, thì mặc dầu cuộc cải cách ruộng đất ban
cho họ một số quyền lợi, họ thừa biết người
đứng chủ mưu là Việt cô.ng. Nhưng họ không thể
kết hợp thành một lực lượng nào đáng kể.
Tóm lại, ở nông thôn không có một lực lượng
nào tồn tại để thách thức quyền lực của
Đảng. Tất cả chỉ là những cá nhân bị bỏ rơi
đơn độc, không nơi nương tựa, trừ bần cố
nông được dựa vào Đảng để hưởng một số
ưu thế nếu chịu làm tay sai cho Đảng. Khối dân
chúng nông thôn hoàn toàn tan rã. Mặc dầu có
chiến dịch sửa sai, phục hồi danh dự cho người
có công với kháng chiến, nhưng chiến dịch này
chỉ cứu được một số người còn sống trong
tù, chứ không cứu được cả trăm ngàn người
đã bị chôn dưới đất. Hơn nữa chiến dịch
sửa sai không tái lập giai cấp cũ vì Việt cộng
xác nhận đường lối cải cách ruộng đất là
đúng, chỉ có những cá nhân phạm phải sai lầm mà
thôị
Sau khi chiến dịch sửa sai đã làm xẹp cơn thịnh
nộ của quần chúng, Việt cộng phải đối phó
với Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm. Mặc dầu phong
trào này có đường lối quy mô (xem cuốn Trăm Hoa
Đua Nở Trên Đất Bắc) nhưng không có tổ chức
sâu rộng và không có sức mạnh vũ trang trong tay
nên sau một thời gian đã bị Việt cộng đàn áp
thẳng cánh.
Giải quyết được Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm,
Việt cộng đã triệt hạ được lực lượng căn
bản chống lại đường lối vô sản chuyên chính,
chúng bèn tiến hành luôn giai đoạn kế tiếp của
Cải Cách Ruộng Đất. Đó là nội dung của bài
nghiên cứu kỳ nàỵ
Kể từ cuối năm 1955 và đầu năm 1956, chính
sách ruộng đất ở miền Bắc của Việt cộng
đã được lồng vào trong khuôn khổ đường lối
công hữu hóa tư sản và tư bản được tiến hành
qua nhiều bước liên tiếp nhau, gọi là những
"kế hoạch" kinh tế 3 năm hoặc 5 năm. Những kế
hoạch kinh tế này nhắm vào hai ngành chính là
Nông Nghiệp và Công Nghiệp (Công nghiệp là danh
từ Việt cộng để chỉ kỹ nghệ). Ngành Thương
Nghiệp sẽ bị Việt cộng bóp chết dần theo đúng
chủ trương đường lối Mác-xít không chấp nhận
giới thương nhân trung gian trong guồng máy kinh
tế cộng sản.
Trong giai đoạn từ 1959 tới 1970, Việt cộng đã
theo đuổi những kế hoạch kinh tế sau đây:
- Kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955-1957).
- Kế hoạch 3 năm lần thứ nhì (1955-1960.
- Kế hoạch hoàn thành và chuẩn bị cho kế hoạch 5
năm (1960-1961).
- Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
- Kế hoạch 5 năm lần thứ nhì (1966-1970).
Trong khuôn khổ nói trên, đợt Cải Cách Ruộng
Đất đưa đến "sửa sai" là một phần căn bản
của kế hoạch 3 năm lần thứ nhất. Nó giúp Đảng
đánh gục giai cấp địa chủ và nhất là các thành
phần chống đối bị coi là nguy hiểm, để dọn
đường tiến tới mục tiêu tối hậu là truất
hữu toàn bộ ruộng đất tài sản của nông dân
sát nhập vào tài sản Nhà Nước. Làm sao cộng
sản Việt Nam có thể ăn cướp một cách trắng
trợn như vậy mà nông dân lại cam chịu đắng cay,
và thế giới bên ngoài hầu như hoàn toàn không
biết gì hết? Để trả lời câu hỏi trên, ta cần
đi lần lượt qua các giai đoạn căn bản của chính
sách Công Hữu Hóa Ruộng Đất:
- Giai đoạn Tổ Đổi Công.
- Giai đoạn Hợp Tác Xã Cấp Thấp.
- Giai đoạn Hợp Tác Xã Cấp Caọ
Ba bước căn bản nói trên được tiến hành nhịp
nhàng với các kế hoạch kinh tế 3 năm và 5 năm,
nhưng có hai đặc điểm rất quan trọng trong việc
Việt cộng thi hành đường lối chính sách mà ta
cần nắm vững.
Thứ nhất: Việt cộng luôn luôn đặt ra những
thí điểm để cho cán bộ học tập kinh nghiệm
và dạy lẫn nhaụ
Thứ hai: Mỗi chính sách, mỗi giai đoạn không
nhất thiết phải được tiến hành đều khắp
trên toàn miền Bắc, nhưng tùy thuộc vào điều
kiện thực tế từng vùng, ví dụ: Chính sách hợp
tác xã cấp thấp có thể hoàn thành tại một
vùng và đẩy lên hợp tác xã cấp cao, nhưng nếu
tại những vùng khác, điều kiện chưa cho phép
thực hiện hợp tác xã cấp cao, thì nông dân
vẫn còn ở trong hợp tác xã cấp thấp. Tình
trạng này dẫn đến những quy luật không đồng
đều cho mỗi vùng, chẳng hạn như tiêu chuẩn
lương thực khác nhau, và thuế nông nghiệp cũng
khác nhau, cho mỗi vùng.